Monday, January 28, 2013

DÙNG CÁCH LỪA DỐI




Lừa. Điều cốt yếu để đánh được địch không phải chỉ dùng sức mạnh để chống, còn phải dùng thuật để lừa. Hoặc dùng cách lừa của ta mà lừa nó; hoặc nhân cách lừa của nó mà lừa nó; lừa bằng tình, lừa bằng lợi, lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn hư thực, lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa mà ta thì biết. Cho nên người giỏi việc binh lừa người mà không bị người lừa.

Vụng
[BD1]. Khi gặp giặc mạnh, ta đóng chặt cửa thành hay lui quân để giữ, thì nên chịu là kèm vụng vậy. Địch có thắng, nếu không tổn hại cho chiến cuộc, thì dù có nói khinh nhờn ta cũng phải nhịn, có đánh ta cũng phải lánh, có kế gì đến ta cũng phải nhận. Phàm những điều ấy là vì khi nên kém vụng thì làm kém vụng vây. Thậm chí, địch không có mưu gì lạ mà ta lo thực thà, địch vốn nằm yên mà ta chờ nó hoạt động, phàm những điều ấy không hẳn là vụng, mà vụng cũng không mất gì. Thà khiến ta có phòng khống mà đừng khiến nó có thực. Từng xem lại chuyện xưa, có khi lấy một cái vụng mà làm thua được danh tướng, nên công hoàn toàn, là vì khéo dùng được phép vụng vậy.

Thuận. Đại phàm chống lại thì càng làm cho thêm bền ra, chi bằng cứ thuận chiều để đưa đến chỗ hỏng. Khi địch muốn tiến, thì ta mềm mại tỏ là yếu để cho nó tiến. Khi địch muốn lui thì ta tản ra mở đường sống cho nó lui. Khi địch cậy mạnh thì ta đóng quân xa để bền giữ mà xem vẻ kiêu của nó. Khi địch nấp uy thì ta giả vờ cung kính để chờ xem thực tình, nhân mà đánh úp, kế mà bắt lấy, nó kiêu thì ta thừa, theo đó mà thu lấy thắng lợi.

Kế. Kế có khi có thể chế được người ngu mà không chế được người trí, có khi chế được người trí mà không chế được người ngu. Một là dùng kế để làm kế, một là dùng không phải kế mà làm kế. Chỉ một cách dùng kế mà trí ngu đều chế được cả. Giả như người trí kia làm ngu thì dùng kế ngu mà đối phó, người ngu kia làm trí thì dùng kế trí mà gieo vào. Nên vượt qua cái tầm sở kiến của địch và chống lại cái nghi của địch thì không kế nào là không thành công. Cho nên kế phải nhân người mà đặt.

Trắc. Hai tướng mới gặp nhau, hẳn có thử nhau. Hai tướng cùng giữ nhau, hẳn có sự tính lường. Lường
[BD2]  về địch để lánh thực mà đánh vào sơ hở; lường về chỗ địch lường ta mà bày tỏ sự kém để đi đến chỗ hơn[BD3] ; lường tính ở chỗ hư để mà dối địch. Thế là một sự lường tính mà lợi được cả hai mặt. Lo ở chỗ không lo, đó là thuật hay, là đạo thắng vậy.

Xảo. Việc đời nếu không lấy đạo thường mà làm nên thì phải lấy xảo, huống chi việc quân. Nắm được một cái sở đoản của địch thì phá được trăm cái sở trường của nó. Nhân một cái sở trường của ta thì cứu được trăm cái sở đoản của ta. Thế gọi là khéo nhân và khéo chế. Ta giả yếu khiến cho giặc lơ là; ta giao nộp khiến cho giặc ngạo; ta quen ở yên khiến cho giặc yên; ta hay thử cho giặc coi thường; ta quấy luôn cho giặc hao tổn; ta khua động cho giặc đề phòng; ta trêu mắng cho giặc tức giận. Đó gọi là cái xảo khinh kẻ ngu. Bỏ chỗ thắng đến chỗ bại; bỏ chỗ mềm đến chỗ rắn, lấy cùn làm sắc; lấy lui làm tiến. Đó gọi là cái xảo lấy cong mà vào. Mạnh mà tỏ là yếu, sống mà cho là chết, được mà không cho là được, thua mà không cho là thua. Đó gọi là cái xảo làm trái.

Dùng dương mà người ta không lường được là dương, thì dương mà hóa âm vậy. Dùng âm mà người ta không lường được là âm, thì âm mà hóa dương vây. Cho nên hoặc giả dương để làm âm, hoặc vận âm để chế dương. Tóm lại không ngoài cách dùng kỳ nắm cơ, đánh úp và đặt phục mà thôi.

Người giỏi dùng binh, không đủ thì tỏ là có thừa, có thừa thì tỏ là không đủ. Có thừa mà tỏ là không đủ, địch không biết thế nào mà lường cho đúng được. Như Tôn tử1 nước Tề cứu Hàn đánh Ngụy. Bàng Quyên2 vốn khinh nước Tề là nhát. Tôn tử nhân thế mà làm theo, bèn khiến người tại đất Nguỵ làm 10 vạn cái bếp, sáng ngày mai giảm làm 5 vạn bếp, rồi lại giảm làm 2 vạn bếp. Bàng Quyên ngờ là quân sĩ Tề trốn mất, bên bỏ quân bộ đi, cùng với quân khinh nhuệ gấp đường đuổi theo, đến Mã-lăng. gặp phục binh vùng dậy, muôn nỏ bắn ra, quân Ngụy rối loạn.

Xin hỏi khi bắn hết tên thì làm thế nào? Bó rơm khô làm người, đêm dựng trong thành, quân địch tranh nhau mà bắn, thì tên bay vào đầy hố. Hay ở trong thành, giương lọng đi lại, địch ngờ là chủ tướng bèn bắn tên như lông dím bay vào, ta nhờ được tên của địch. Cách xảo ấy còn gì bằng.

Bỏ vật để cho loạn, bỏ người để cho động, bỏ lũy trại đất đai để cho kiêu, có cái nên bỏ thì bỏ, nếu tiếc thì khó thành. Không sợ không thành công.


 [BD1]Vụng là kéo lâu thời gian, nhẫn nại một thời gian rất lâu dài
 [BD2]Thử sức chiến đấu, suy đoán về nhau, ước tính trước khi giao chiến.
 [BD3]Ví dụ, quân địch thấy ta yếu về kỵ binh, củng cố thêm kỵ binh để áp đảo quân lực, suy tính trước, và suy đoán địch sẽ làm vậy, thì ta bí mật đào hố, để mai phục quân địch, hay là ta bí mật đặt phục binh để diết kỵ binh.

Friday, January 18, 2013

Thiên Thứ Mười Một - Cửu địa


1) Tôn Tử nói rằng : Trong binh pháp có chín thế đất khác nhau :
-Thế đất ly tán :
-Thế đất dễ lui (vào cạn);
-Thế đất tranh giành ;
-Thế đất khó lui(vào sâu) 
-Thế đất khó đi lại ; 
-Thế đất giao thông ;
-Thế đất ngã tư ;
-Thế đất vây bọc ;
-Thế đất chết kẹt ; 

 
 

Chú thích:  

Đất ly tán mô tả về tình hình một vùng đất, một địa phương, một thành phố đang bị xâm chiếm, và giao tranh ác liệt.  Dân chúng trong địa phương đó rất là hoang mang, sợ hãi.  Người người ly tán bốn phương tám hướng để tìm chổ an toan.  Khói lửa khắp nơi, nhà của đổ nán, hoang tàn, thành phố điêu tàn.


Đất dễ lui mô tả về tình hình các vùng đất, thành phố mằn sát biên giới.  Quân đội có thể vướt biên giới mà giao tranh rồi rút về biên giới nước mình một cách dễ giàng.  Tùy theo phương tiện vũ khĩ, và di truyển của từng thời đại, mà ước lượng độ gần độ xa.  Ví dụ, thời cổ xưa, con người phải di truyển bằng cặp chân.  Vận tốc của đôi chân có thể tính chung bình làm 10-15km cho một ngày. Di chuyển hàng vạn người cùng một lúc thì vận tốc con chậm hơn nưa. Đó là chưa tính tới địa thế đất đó ra sao.  Nếu mà đi đường núi hiểm chở, thì vận tốc càng chậm hơn nữa. Nếu mà tiến vào đất nước người khoảng 10-30km thì là đất cạn.  Nếu mà tiến vào đất người 100km thì phải mất đến 8-9 ngày, thì có thể nói là vào đất sâu. 


Đất tranh giành đây là vùng đất mà chưa phân rõ chủ quyền. Ví dụ, ở đông nam á, có các đảo trường xa, hoàng xa đang được tranh chấp giữa Việt Nam, Philipine, Trung Quốc, Đài Loan.  Vùng đất Kishmir giữa Pakistan và Ấn Độ. 

Đất ngã tư là vùng đất giao điểm với bốn nước cùng một lúc.  Ví dụ vùng tam giác vàng của ba nước Thailan, Miễn Điện, Lào.  Nếu mà hai nước giao tranh giết chết lẫn nhau, thì nước thứ ba thừ cơ hội hưởng lợi.  "Ngư ông đắc lợi".



Đật khó đi lại mô tải vùng đất đầm lậy. cây cối um tìm, xa mạc nóng nảy, núi non cao vút, hiểm trở.  Đường xa dễ bị trơn chướt, té ngãng, rất là nguy hiểm để một quân đội với vạn người đi vào vúng đất khó đi lại.  Ví dụ thời nay, một trung đội xe tăng đi vào vùng đất đang trồng lúa, đầm lậy thì chỉ có chết vì bị mắc kẹt trong đâm lầy và khó di truyển kết quả thì quân du kích cấm cối vác vai bán cho chết.  
Đường đi go gề
Sình lầy, khó di chuyển
Cây cối um tùm, đường đi sình lầy, dể bị mai phục


Đất vây bọc là vùng đất lối vào thì chật hẹp,lối ra thì quanh co,binh địch ít có thể đánh được binh ta nhiều vì chúng có thể mai phục ở hai bên con đường hẻm, hoắc là làm thành tũy để ngăn cản ở đất lối đi vào chật hẹp.  Còn đường chập hẹm quanh co thì sẽ khó di chuyển, và khó khăn trông xa nhìn thấy địch.  Quân địch có thể mai phục hai bên con đường hẹp mà đánh úp vào bất cứ lúc nào.  Quân ta kho mà ứng kiếu với nhau được.
Đường đi nhỏ hẹp, vắt núi cao lớn
Đường đi quanh co dể bị bao vây hai đầu
 

Đật chết có ý nói đến tình thế, quân ta đang bị quân địch bao vây bốn phướng tám hướng, không còn đường nào chọn lựa khác nữa là quyết chiến cho đến chết.  Có quyết chiến thì còn có một huy vọng phá vòng vây mà tìm con đường sống.  Đất chết còn có hàm ý là quân ta bị bao bọc ở vì vắt núi cao, sông hồ ở ba phía, bên trai bên phải, và sau lưng.  Còn trước mặt thì bì quân định chờ đón.  Vị dụ thung lũng là những địa thế đật kẹt tư nhiên, quân ta mà đóng quân trong thung lũng thì có mà thoát ra khỏi đước tấn công mai phúc ở trên cao xuống.

2)  Chư hầu tự đánh trên đất mình,đó là thế đất ly tán :
3)  Vào đất người chưa được sâu, đó là thế đất vào cạn hay dễ lui ;
4)  Ta chiếm được thì lợi cho ta,địch chiếm được thì lợi cho địch, đó là thế đất tranh giành .
5)  Ta đi lại dễ dàng,địch đi lại cũng dễ dàng,đó là thế đất giao thông.
6)  Đất tiếp giáp với ba nước chư hầu,ai đến trướcthì giao kết được với dân chúng trong thiên hạ, đó là thế đất ngã tư.
7)  Đi sâu vào đất nước của người,đã vượt qua nhiều thành ấp của địch,đó là thế đất vào sâu hay khó lui.
8)  Ở những vùng núi rừng hiểm trở, có nhiều đầm lầy, các đường xá đi lại rất khó khăn, đó là thế đất khó đi lại ;
9)  Lối vào thì chật hẹp,lối ra thì quanh co,binh địch ít có thể đánh được binh ta nhiều, đó là thế đất vây bọc ;
10)  Dánh gấp thì còn sống, không dám đánh gấp thì phải thua chết, đó là thế đất chết kẹt.

11)  Bởi thế cho nên :
Ở đất ly tán thì không nên đánh đường hoàng.
Ở đất vào cạn (dễ lui) thì chớ dùng binh.
Ở đất tranh giành thì chớ tấn công.
Ở đất giao thông thì chớ đóng binh ngăn đường.
Ở đất ngã tư, thì nên kết giao với các nước chư hầu.
Ở đất vào sâu (khó lui) thì nên cướp đoạt.
Ở đất khó đi lại thì nên bỏ đi nơi khác.
Ở đất vây bọc thì nên dùng mưu.
Ở đất chết kẹt thì nên liều đánh

12)  Ngày xưa kẻ giỏi dùng binh có thể khiến cho quân địch trước sau mất liên lạc, binh nhiều và ít không thể cậy nhờ nhau, người sang và kẻ hèn không thể cứu nhau người trên và kẻ dưới không thể giúp nhau, sỹ tốt ly tán mà không thể tập trung được, binh tụ hợp mà không thể chỉnh tề kẻ dùng binh thấy có lợi thì dấy không có lợi thì dừng.

13) Nếu quân địch kéo đến đông đảo và chỉnh tề thì ta phải làm thế nào ?
Trước hết hãy đoạt hết chỗ thiết yếu của chúng, như thế ắt chúng phải nghe theo ta. 

14)  Việc binh cốt yếu phải mau lẹ, thừa dịp địch không kịp xoay trở, ta đi theo nhưng đường lối mà chúng không ngờ tới để đánh vào những chỗ mà chúng không phòng bị.

15)  Binh giữ vai khách ở nước người, tiến vào sâu thì được chuyên nhất, chủ nhân không thể khắc trị nổi. 

16)  Ta chiếm đoạt những đồng ruộng phì nhiêu để nuôi sống ba quân ; ta bồi dưỡng sĩ tốt đừng bắt họ làm lụng vất vả, để dồn chứa khí lực cho họ, khi động dùng thì dùng mưu kế lạ khiến cho kẻ địch không thể lường được. 
17)  Ta ném binh vào chỗ không thể tháo lui nên binh ta dẫu chết cuũng không trốn chạy thế mà không lẽ chịu chết mà không được gì sao bởi thế nên sic tốt hết lòng chiến đấu.
18)  Binh sĩ bị vây hãm quá mứ cắt không còn lo lắng sợ hãi nữa, không có chỗ chạy nên phải vững chí, tiến vào sâu nên không bị trói buộc cực chẵng đã phải đánh vậy. 
19)  Cho nên binh ấy không cần phải căn dặn gì mà vẫn giữ gìn, không cầu mong mà đuwocj lòng sĩ tốt, không cần ước thúc mà thương yêu bề trên không ccàn nói mà đã tin cậy. 
20)  Cấm bàn điềm gở, trừ khử ngi ngờ thì binh ấy đến chết cũng không thay lòng .
22)  Sĩ tốt ta không thừa tiền của không phải họ ghét tiền của, họ không tiếc tính mạng không phải họ ghét sống lâu. 
23)  Ngày ra lệnh sĩ tốt kẻ thì ngồi khóc nước mắt chảy ướt áo, kẻ thì nằm khóc lệ tràn ướt má. Ném binh ấy và chỗ không chạy được thì họ sẽ dũng cảm như Chuyên Chư và Tào Quệ.
24)  Binh biết dùng xẽ như con suất nhiên. Suất nhiên là giống rắn ở Thường Sơn. Đánh vào đầu thì đuôi quặt lại đâm, đánh vào đuôi thì đầu quay lại cắn, đánh vào mình thì đầu đuôi đều quặp vào giữa
25)  Có thể dùng binh như con suất nhiên được không ?
Có thể. Người ở nước Ngô và người ở nước Việt tuy ghét nhau nhưng khi ngồi chung một thuyền để qua sông gặp phải sóng gió, thì cùng cứu nhau như tay trái và tay mặt vậy.
26)  Trói chân ngựa chôn bánh xe đều chưa đủ tin rằng đứng yên một chỗ. Làm sao cho mọi người cùng một lúc trở nên bạo dạn như một người, như thế mới đúng là phép cầm binh. 

27)  Ba quân cứng hay mềm mạnh hay yếu, đều có thể dùng được cả, đó là nhờ địa thế vậy. 

28)  Cho nên kẻ giỏi dùng binh, sai sử ba quân giống như dẫn dắt một người thành thử họ cực chẳng đã phải tuân theo vậy.

29)  Khi mưu đồ việc gì bậc tướng súy phải lặng lẽ để được sâu kín, phải ngay thẳng chỉnh tề để được trị được yên, phải bịt tay che mắt sĩ tốt khiến cho họ chẳng biết được ý mình, phải đổi công việc thay mưu kế khiến cho sĩ tốt không hiểu được việc mình, phải dời chỗ ở dẫn binh đi quanh kẹo, khiến cho sĩ ttố không lường được kế mình.

30)  Tướng sĩ dẫn binh đi lâm trận cũng như leo lên cao rồi vứt thang đi; dẫn quân đi sâu và đất chư hầu, đốt thuyền đập nồi để phát động tâm cơ của sĩ tốt, giống như là xua một bầy dê xua qua thì qua xua lại thì tìm lại, chẳng biết là đi đâu ; nắm ba quân, ném vào nơi hiểm yếu đó là công việc của tướng súy.

31)  Cách ứng biến của chín thế đất, điều lợi hại sự co duỗi, lẽ thường của nhân tình, đó là những điều mà tướng súy không thể không xét kỹ.
Theo phép đem quân giữ vai khách ở nước người thì :
• Vào sâu ắt được chuyên nhất ;
• Vào cạn ắt phải ly tán ;
• Ra khỏi nước mình, vượt biên giới để đóng quân đó là đất cách tuyệt ;
• Giao thông được bốn nước đó là đất ngã tư ;
• Đã vào sâu rồi đoa là đất khó lui ;
• Mới vào cạn đó là đất dễ lui ;
• Mặt sau hiểm trở không lui được, mặt trước có đèo ải khó qua,đó là ở đất vây bọc
• Không có lối thoát đó là ở đất chết kẹt ;
Bởi thế cho nên :
• Ở đất ly tán ta thống nhất ý chí của ba quân ;
• Ở đất dễ lui ta cho ba quân đi liền nhau vì đó đồn chấn giữ liền nhau ;
• Ở đất tranh giành ta đem quân đánh vào lưng địch
• Ở đất giao thông ta giữ gìn cẩn thận
• Ở đất ngã tư, ta củng cố tình giao hảo với các nước chư hầu
• Ở đất vào sâu (khó lui) ta lo chu cấp đều dặn lượng thực cho quân sĩ
• Ở đất chết kẹt ta cho sĩ tốt biết rằng không thể sống còn
• Ở đất vây bọc ta cho bít chỗ hở
• Ở đất khó đi lại ta đi qua khỏi cho gấp rút

32)  Cho nên tình trạng việc binh phải như sau :
• Bị vây thì phải chống cự
• Cực chẳng đã nên phải đánh
• Bị địch bức bách quá nên phải tuân lệnh tướng súy
• Không biết được mưu kế của chư hầu thì không tính trước việc kết giao.
• Không biết hình thế núi rừng, đầm lầy hiểm trở như thế nào thì không thể hành quân.
• Không dùng kẻ hướng đạo thì không thể lấy địa lợi.

33)  Trong những điều đấy không biết một thì không đáng gọi là binh của bậc bá vương.

34)  Binh của bậc bá vương hễ đanh nước lớn nào thì khiến cho binh của họ không thể tụ hợp được, uy hiếp địch đến nỗi các nước khác không giám đến kết giao với địch.

35)  Bởi thế cho nên không cần tranh giành việc kết giao với thiên hạ, không cần bồi đắp quyền thế của mình đối với thiên hạ, chị tin cậy thực lực riêng của mình để uy hiếp địch quốc nên có thể đánh lây thành của họ. 

36)  Nên ban thưởng đạc biệt ra ngoài phép ban thưởng, nên ra những mệnh lệnh đặc biệt ra ngoài thông lệ, thì có thể sử dụng ba quân như sai khiến một người. 

37)  Bày công việc ra để sai khiến mà chớ nói trước cho biết, bày điều lợi để sai khiến mà chớ cho thấy điều hại.

38)  Ném binh vào đất mất rồi mới còn, để binh bị vây hãn ở đất chết rồi sau mới cho sống. 

39)  Để cho binh thấy sự nguy hại đe dọa ròi sau ta mơi làm chủ sự thắng bại được.

40)  Phép dùng binh là giả vờ thuận theo ý địch, dồn binh đánh vào một hướng , từ ngàn dặm đế giết tướng địch, đó gọi là khéo nên làm nên việc.

41)  Ngày quyết định dấy binh hãy đóng chặt các nơi quan ải, hủy bỏ phù tiết không thông sứ với địch quốc, truớc phải tính toán cẩn thận chốn miếu đường để sắp đặt công việc cho được chu đáo.

42)  Thấy địch sơ hở chỗ nào thì vội len vào. Muốn đánh chiếm chỗ thiết yếu nào thì phải giấu kín ý định của ta, phải tùy theo địch tình mà sắp đặt kế hoạch chiến đấu.

Chú thích câu số 42: Theo dõi tình hình bên địch kỹ càng, chờ đợi bên đich sơ hở thì ta chụp lấy thời cơ và khai thác chiệt để.  Phải giữ kín ý định một cách bit mật nếu mà ta muốn đánh chiếm chố nào yếu điểm nhất, và cần nhất.  Quan trọng nừa là phải tuy cơ ứng biến và sắp đặt kế hoạch chiến đấu.

43)  Lúc mới đầu binh phải như gái tơ, chờ địch hé cửa thì sông vào như thỏ chạy chốn khiến địch không kịp chống cự.

Chú thích câu số 43: ý nghĩa câu này muốn nói lên mưu kế nghi binh, làm bộ giả dạng như một cô gái thơ nhây, không biết gì cả.  Tạo lên hình ảnh yếu kém, ngu dốt, vụng về để làm cho quân địch hiểu lầm, khinh khi,  cho nó là giỏi, là tài, là dũng mạnh nên chúng nó sẽ không đề phòng cao độ, tính toán kỹ lưỡng.  Chờ đợi quân địch sơ hở một tí (hé cửa),  thì quân ta ra tay tấn công bất ngờ, làm cho địch trở tay không kịp.


Tuesday, January 8, 2013

Thiên Thứ Mười - Địa Hình


1)   Tôn Tử viết : Địa hình có 6 loại gồm : thông, quải, chi, ải, hiểm, viễn.
2)   “Thông” là ta có thể đi, địch có thể đến. Địa hình này ai chiếm trước được chỗ cao, bảo đảm đường vận chuyển lương thực thông suốt mà tác chiến thì đắc lợi.
3)    “Quải” (vướng) là nơi tiến đến thì dễ và trở lui thì khó. Địa hình này nếu địch không phòng thì ta có thể bất ngờ tấn công thì đắc thắng, nếu địch có phòng ta đem quân đến đánh mà không thắng thì khó có thể rút về, rất bất lợi.
4)   “Chi”(cầm) là nơi ta tiến đến bất lợi, địch tiến đến cũng bất lợi. Địa hình này thì địch dù có đem lợi dụ ta cũng chớ nên xuất kích, nên giả thua rút đi, dụ địch tiến ra nửa chừng hãy đem quân trở lại công kích thì ta đắc lợi.


5)   “Ải” (hẹp) là ơi đâ hẹp, ở địa hình ta nên tìm ách chiếm trước mà chờ địch đến. Nếu địch chiếm trước ta mà dùng nhiều quân giữ cửa thì ta không nên đánh, còn nếu địch không nhiều binh phòng thì ta có thể tiến đánh.





6)   “Hiểm” là nơi hiểm trở. Ở địa hình này nếu ta chiếm trước địch thì nên đóng ở chỗ cao, dễ quan át để chờ địch tới, nếu địch chiếm trước thì ta nên lui quân, chớ tiến đánh.

7)   ”Viễn” (xa) là nơi xa rộng. Ở địa hình này tình trạng thế lực đôi bên ngang nhau thì không tiện khiêu chiến, nếu miễn cưỡng đánh thì bất lợi.


8)   Sáu điều nói trên là nguyên tắc lợi dụng địa hình, tướng lĩnh có trọng trách không thế không suy xét kỹ.
9)   Việc binh có sáu tình huống tất bại là tẩu, trì, hãm, băng, loạn, bắc. Không phải do tai họa trời đất mà là sai lầm của tướng lĩnh gây ra.
10)                    ”Tẩu” là địa thế như nhau mà chỉ huy nhu nhược, không quyết đoán.
11)                    ”Trí” là binh sĩ hăng hái mà chỉ huy nhu nhược, tất nhiên kém sức chiến đấu.
12)                    ”Băng” là chỉ huy nổi giận mà binh sĩ không phục, gặp phục địch cứ tự ý xuất chiến, chủ tướng lại không hiểu năng lực của binh sĩ, ắt sẽ bại như núi lở.
13)                     ”Loạn” là tướng lĩnh nhu nhược, không uy nghiêm, huấn luyện không có bài bản, quan hệ trên dưới không ra thể thống gì, bày trận lộn xộn, tự mình làm rối quân đội của mình.
14)                    ”Bắc” là tướng lĩnh không biết phán đoán chính xác tình hình địch, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, tác chiến lại không có lực lượng mũi nhọn, cầm chắc thất bại.
15)                     Sáu tình huống ấy là nguyên nhân dẫn đến thất bại, tướng lĩn có trọng trách không thể không suy xét kỹ.
16)                     Địa hình là điều kiện hỗ trợ cho việc dùng binh.
17)                    Phán đoán tình hình, giành lấy thắng lợi, khảo sát địa hình lợi hại, tính toán xa gần, đó là phương pháp mà một tướng lĩnh tài giỏi phải nắm vững.
18)                     Nắm vững phương pháp rồi mới chỉ huy tác chiến thì chắc thắng, không nắm vững phương pháp đã lo chỉ huy tác chiến thì tất bại.
19)                    Sau khi phân tích quy luật, thấy đánh được chắc thắng, dù chúa bảo không đánh vẫn phải kiên trì đánh.
20)                    Thấy đánh ắt thua, dù chúa bảo nhất định phải đánh cũng có thể không đánh.
21)                    Tiến không cầu danh thắng, lui không sợ phạm lệnh, chỉ cốt bảo vệ lợi ích của nhân dân và quốc gia, tướng lĩnh thế mới thực sự là người quý của đất nước.
22)                    Đối xử với sĩ tốt như con em, họ sẽ cùng ta xông pha vào những nơi hung hiểm, coi sĩ tốt như con yêu quý, họ sẽ cùng sống chết bên ta.
23)                    Hậu đãi quân sĩ mà không sử dụng, nuông chiều quân sĩ mà không giáo huấn, phạm pháp mà không phạt thì họ khác nào những đứa con hư, chẳng thể dẫn đi chinh chiến được.
24)                     Chỉ biết quân mình có thể đánh mà không hiểu có thể đánh địch được hay không thì mới có nửa phần thắng.
25)                    Biết có thể đánh được địch mà không hiểu quân mình có đánh nổi không cũng chỉ mới có nửa phần thắng. biết kẻ địch có thể đánh bại được, biết quân ta có thể đánh nổi mà không hiểu địa hình bất lợi cho việc tác chiến thì thắng lợi cũng mới nắm được một nửa.
26)                    Người biết dùng binh thì hành động quyết không mê muội, sử dụng chiến thuật biến hóa khôn lường. Thế mới nói : biết địch biết ta, thắng mà không nguy ; nắm vững thiên thời địa lời sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn.