Thursday, September 13, 2012

Thiên Thứ ba - Mưu công

Đinh Nghĩa: 
    Mưu là kiến thức, kinh nghiệm, sự sáng tạo, sự nghệ thuật do bộ tóc con người suy nghĩ ra để tranh giành quyền hành và lợi ít cho một cá nhân, một tập thể hay là một đất nước.  Lợi ít có thể là tiền bạc, vật chất, tình cảm, quyền hành, đất đai lãnh thổ và vân vân ...

Công là hành động ra tay, ra sức lực làm một việc gì đó đem lại hậu quả sấu, hậu quả thương tích, hậu quả mất mát đến một cá nhân, một tập thể, một đất nước trên thể sát hay là tinh thần.

Mưu công : là tất cả các phương thức tấn công, ý tưởng và sáng kiến tấn công, lý luận tấn công do bộ tóc con người nghĩ ra mà đem đến hiệu quả tốt nhất, cao nhất.

Mưu thủ : là tất cả các phương thức phòng thủ, ý tưởng và sáng kiến phòng thủ, lý luận phòng thủ đo bộ tóc con người nghĩ ra mà đem đến hiệu quả tốt nhất, cao nhất.

1) Tôn tử nói: Đại phàm cái phép dụng binh, làm cho cả nước địch khuất phục trọn vẹn là thượng sách, đánh nó là kém hơn.

    Chú thích : Không cần giao chiến, mà nước địch phải khuất phục vô điều kiện đây là ý tưởng cao nhất, hay nhất mà    Tôn Tử đề ra để làm chuẩn cho công việc nghiên cứu, phân tích, so sánh và áp dụng.  Ví dụ, cả thể giới đều khuất phục nền khoa học kỹ thuật của Mỹ là cao nhất thế giới trong thập niên 1980, 1990, 2000.  Câu 1 nói về sức mạnh tập thể ở cấp độ đất nước.

2) Làm cho toàn quân địch chịu khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn.

Chú thích : câu hai bàn về sức mạnh  quân sự, quân đội ở cấp độ của một nước.


3) Làm nguyên lữ quân địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn.
4) Làm nguyên một tốt địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn.
5)  làm nguyên một ngũ địch khuất phục là thượng sách, đánh nó là kém hơn.

     Chú thích : câu 3 nói về cấp độ lữ quân (1000 ngàn người)  câu 4 nói về cấp độ tốt (100 người) và câu 5 nói về cấp ngũ (5 người).
6)  Thế nên bách chiến bách thắng cũng chưa phải cách sáng suốt trong sự sáng suốt.
7)  Không cần đánh mà làm kẻ địch khuất phục mới gọi là sáng suốt nhất trong sự sáng suốt.
8)  Cho nên thượng sách trong việc dùng binh là lấy mưu lược để thắng địch, kế đó là thắng địch bằng ngoại giao, kế nữa là dùng binh thắng địch, hạ sách là tấn công thành trì. 

Chú thích: câu 8, chiến lước hay nhất là phải tạo dựng lên một quân đội mạnh mẽ làm hậu thuẫn cho mình.  Lên kế hoạch phá lại kế hoạch của địch trước khi mà kế hoạch của địch được thi hành.  Kết cuộc là bên mình tạo được lên thế chủ động, bên địch phải mằn trong thế bị động và phải làm theo ý của mình đã sắp đặt.  Kế đến là mình phải thắng địch bằng phép ngoài giao.  Di tìm đồng minh ủng hộ bên mình, làm được như vậy thì nước địch sẽ lầm vào vị thế cô lập.  Không nước nào giúp đỡ và ủng hộ. Kế đến là dùng binh lực để đánh địch.  Trong chiến tranh, cho dù bên nào thắng thua thì cũng phải hao binh tổn tướng, hao kiệt ngân sách quốc gia.  Thệ hại nhất là phải công thành trì.  Quân địch ở trong thành trì được bảo vệ kỹ lưỡng bằng bức tường đá, và có lợi thế từ trên cao đánh xuống.  Muốn chiếm được thành thì phải hy sinh quân lực gấp ba gấp năm để đổi lậy được thành trì.


9)  Đánh thành là biện pháp bất đắc dĩ, chế tạo chiến xa, vũ khí phải mất 3 tháng mới hoàn thành, chuẩn bị binh mã lại mất 3 tháng nữa.
10) Tướng sốt ruột xua quân đánh thành, thương vong 3 phần mất 1 mà vẫn chưa hạ được.
11) Đó chính là cái hại của việc đánh thành. Cho nên người giỏi dụng binh, thắng địch mà không phải giao chiến, đoạt thành mà không cần tấn công, phá quốc mà không cần đánh lâu, nhất địch phải dùng mưu lược toàn thắng mà thủ thắng trong thiên hạ, quân không mỏi mệt mà vẫn giành được thắng lợi hoàn toàn.
12) Phép dụng binh, gấp mười lần địch thì bao vây, gấp năm lần địch thì tấn công, gấp đôi chì chia ra mà đánh, bằng địch thì phải đánh khéo, kém địch thì rút, tránh giao tranh với địch.

    Chú thích : câu 12 Tôn Tử đề ra một tiểu chuẩn đánh nhau hầu mang lại thắng lợi tương đối.  Tỉ lệ 10:1 thì bao vây rồi bắt sống hay là giết, tỉ lệ 5:1 thì có thể tấn công và thắng, tỉ lệ 2:1 thì có thể chia ra làm hai phía. Một phía đánh thắng phía còn lại đánh sau lưng, hay là đánh nghang hông.  Tỉ lệ 1:1 thì phải cẩn thận, khéo léo mới có cơ hội thắng.  Còn tỉ lệ ít hơn thì rút lui là hay nhất để bảo toàn lực lượng.

13) Binh yếu mà đánh thẳng tất bị bắt làm tù binh.

     Chú thích: câu 13 Tôn Tử nêu lên quy luận tự nhiên bên nào mạnh hơn thì sẽ thắng.  Nói cách khác bên mạnh là sẽ còn sống.  Bên yếu mà đánh chích diện, đánh mặt đối mặt chỉ có thể mua mà thôi.  Ngược lại nếu mà bên yếu mà đánh lén, đánh bất ngờ, đánh mà lúc bên mạnh không để ý thì có thể còn cơ hội sống sót và thắng.

14) Tướng soái là trợ thủ của quốc gia, trợ thủ tốt thì nước cường thịnh, kém thì nước suy yếu.
15) Vua có thể gây bất lợi cho việc quân trong 3 trường hợp: không biết quân không thể tiến mà bắt tiến, không biết quân không thể thoái mà bắt thoái, đó là trói buộc quân đội.

     Chú thích:  trong thời nay, vua còn cho thể suy ra là người lạnh đạo chích trị, người chỉ huy cao nhất trong chiến tranh, mà không nhất thiết có mặt ở trong chiến trường.  Còn quân nói ở đây là quân sự, và quân đội, tướng tá chỉ huy trong chiến trường.  Một bên là người chỉ huy chích trị đất nước, một bên là người chi huy quân đội chiến trường.  Hai bên mà không làm việc chung với nhau được thì gây nên bất lợi cho quân đội đánh nhau ở xa trường.

16) không biết việc quân mà can dự vào khiến tướng sĩ hoang mang khó hiểu. không biết mưu kế dụng binh mà can dự vào khiến tướng sĩ băn khoăn nghi ngờ.
17) Quân hoang mang nghi ngờ thì các nước chư hầu thừa cơ tấn công.
18) Đó là tự làm rối mình khiến địch thắng.
19) Cho nên có năm điều có thể thắng: Biết có khả năng đánh hay không có khả năng đánh, có thể thắng, biết dựa vào binh lực nhiều ít mà đánh, có thể thắng, quân tướng đồng lòng có thể thắng, lấy quân có chuẩn bị đánh quân không chuẩn bị có thể thắng, tướng giỏi mà vua không can thiệp vào có thể thắng.

     Chú thích:  người tướng lãnh biết thu phập thông tin bên địch, biết phân tích tình hình, biết so sánh lực lượng, biết dự đoán khả năng đánh hay không đánh, thì có thể mang lại thắng lợi.  Người tướng lãnh biết dựa vào quân đội mạnh, thì có thể thắng.  Chiến sỹ và tướng cùng đồng tâm nhất trí cũng có thể thắng.  Quân đội đước đào tạo kỹ lưỡng, đước chuẩn bị vũ khĩ tốt thì sẽ có thể thắng quân đội không đao tạo và chuẩn bị.  Cuối cùng, tướng tá giỏi mà không bị tổng thống can thiệp, không bị chính trị chi phối vào chiến trường thì có thể thắng trận.  Đây là tương tưởng tắt rời bộ phận quân sự và bộ phận chính trị ra làm hai.

20) Đây là 5 điều có thể đoán trước được thắng lợi.
21) Cho nên có thể nói: Biết địch biết ta, trăm trận không bại, biết ta mà không biết địch trận thắng trận bại, không biết địch không biết ta, trận nào cũng bại(nguyên văn: Tri bỉ tri kỷ giả, bách chiến bất đãi, bất tri bỉ nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ, bất tri bỉ bất tri kỷ, mỗi chiến tất đãi)

Monday, September 10, 2012

Chiến Thuật Tập Kích, Phục Kích và Du Kích

Định nghĩa tập kích:  là dùng một lực lượng, di chuyển nhanh lẹ và bí mật, tấn công áp sát đối phương, ra tay tấn công trước vào kẻ địch làm cho chúng lâm vào hoàn cảnh bất ngờ, lúng túng trong lúc đối phó với quân mình, làm cho đội hình chiến đấu của địch rối loạn.  Yếu tố bất ngờ xảy ra ít ra cũng là lúc ban đầu khi giao chiến.

Yếu tố thàng công:

  1. Di chuyển nhanh nhẹ
  2. Vị trí tấn công mà quân địch không phát hiện được trước
  3. Quân địch mất sức chiến đấu thì lúc bắt đầu.
  4. Bí mật đánh lén

Định nghĩa phục kích:  là dùng một lực lượng nằm sẵn một ví trí nào đó mà chờ địch đi ngang qua mà tấn công.  Phục kích còn được gọi là mai phục

Yếu tố thành công:
  1. Bí mất
  2. Phục kích ở đâu mà mình suy đoán, tính toán trước là địch sẽ phải đi qua
  3. Lợi dụng địa thế trận địa đlàm nơi trú ẩn, và đánh bất ngờ làm địch không chở tay kịp.

Định nghĩa du kích:  là dùng một lực lượng tấn công vào địch rồi bỏ chạy.  Du kích cũng là một phương thức quấy rối quân địch.  Làm cho quân địch bị phiền hà, tức dận và nóng nảy.  Làm cho quân đích phải bị mệt mỏi để ra sức phỏng thủ, và đối phó, mà địa điểm, và thời gian không bao giờ biết trước được.  Địch sẽ phải tự mình vào thế bị động.  Làm cho quân địch bị ngăn cản, chế nãi khi hành quân.  Làm cho quân địch bị đói khổ.  Làm cho quân địch bị cắt đường tiếp tế lương thức và vũ khí.

Khi lực lượng đối phương mạnh hơn mình thì mình phải áp dụng chiến thuật du kíchChia nhỏ lực lượng mình ra thành nhiều nhóm nh có những lợi điểm sau đây.

1) Ddàng áp sáp đối phương
2) Để không bị tiểu điệt hết lực lượng cùng một lúc,  khi mà đối đầu với lực lượng mạnh hơn
3) Ddàng lẫn chn, di chuyển mà không bị phát hiện, khe núi, rừng cây bụi rậm, rẵn, hầm trú ẩn, địa đạo, hẻm nhỏ.

4) Các lực lượng nhdễ dàng tập hợp lại thành lực lướng lớn tấn công một địa điểm nào bất ngờ, mà địch không phòng bị và tạo lên thế chđộng.  
5) Các lực lượng nhỏ tập hợp lại bao vây và tấn công từ nhiều hướng vào một địa điểm làm cho quân địch không biết suy đoán trước được để phòng thủ.
6) Các lực lượng nhỏ tập trung hỏa lực đánh vào điểm sơ hở của địch, đim trọng yếu trong tuyến phòng ngự của bên địch.
7) Chia nhỏ thành nhóm để dễ dàng rút lui.
8) Chia nhthành nhóm để có lấy ít đành nhiều ở trong các địa thế thuật lợi.
 
Yếu tố thành công:
  1. Bí mất
  2. Di chuyển nhanh nhẹ, tiến nhanh rút nhanh
  3. Có kế hoạnh rút lui an toàn
  4. Luôn luôn giữ thế chủ động, và tấn công
  5. Phải có kế hoạch thích hợp và chu đáo
  6. Tránh chố mạnh, mà đánh chố yếu
  7. Tránh những trận gay go
  8. Không sống chiết chiếm lấy đất
  9. Ra tay tấn công lúc địch đanh di chuyển là tốt nhất
  10. Ra tay tấn công lúc địch mt mỏi
  11. Làm cho quân địch mù mắt và hoảng hốt vì bị bất ngờ.
Phương Pháp Áp Dụng Chiến Thuật Du Kích

1)Thấy quân giắc tập trung có thực lực thì ta phân tán lẽn vào dân ở làng kế bên và ẩn núp.  

2)Thấy quân giắc lẻ tẻ thì ta tập trung lực lượng đánh chớp choáng rồi phân tán lực lượng và rút binh.  Trong lúc tấn công chớp nhoáng ta áp dùng chiến thuật tập kích hay là phục kích đối phương.  Lúc ra tay phải bí mật và bất ngờ.  

Phân tích tình hình thì ta sẽ ở trong thế chủ động tấn công bất ngờ, còn giặc sẽ ở trong thế bị động phản ứng gấp rút và đội hình dễ bị rỗi loạn.  Làm theo phương cách du kích nhiều lần và thành công thì sẽ làm cho quân giắc có cảm giác gặp bóng ma.

Lợi Điểm Khi Áp Dụng Chiến Thuật Du Kích
1)  Làm tiêu hao thực lực của giặc
2)  Toàn dân cùng đánh giắc, chiến thuật du kích thường là do quân dân ra tay
3)  Dựa vào sức kháng chiến của dân cùng đánh giặc với quân đội chiền đình vào thời xưa, hay là quân đội chính phủ thời bây giờ.
4)  Quân dân cùng sống với dân, đói thì được dân cho ăn uống, no thì được dân cho lẫn nấp, bệnh thì được dân lo chữa bệnh,  chết thì được dân lo chôn cất, thông tin thì được dân thông báo
5) Di chuyển nhanh nhẹ tại vì ta phân tán nhỏ
6) Địa hình thì thông suất tại vì ta là quân và là dân.
7) Nếu bị chết thì có người dân khác thay thế được liền


Mô Hình Toàn Nước Chống Giặc Toàn Dân Giữa Nước

Mỗi làng mỗi xóm là một chiến lũy, trên phương diện toàn nước thì ta có hàng trăm ngàn chiến lũy.  Mỗi một chiến lũy đền thông suất với nhau.  Mỗi một chiến lũy thì được thiết lập một hệ thống phòng phủ kiên cố.  Nếu quân giắc muốn chiếm hết đất nước thì địch phải dàng quân mỏng ra mà tiêu từng chiến lũy một.  Nếu giặc mạnh hơn ta thì ta rút qua bên làng kế bên.  Nếu giắc đánh làng kế bên thì ta rút lui về làng cũ.  Nếu giắc yếu hơn ta thì ta tâp trung lại rồi tấn cống địch sau đó ta lại phân tán.  Đánh khi nào mà thực lực quân địch yếu đi, mười phần còn lại 3 hay 4 phần thì ta toàn quân tổng tấn công.

Trong khi đó ta phải có một lực lượng chính binh ngăn chặn đường tiếp tế lượng thực và của giắc.  Có như vậy ta mới ở trong tứ thế mạnh còn giặc ở trong tư thế yếu.  Yếu vì không còn lương thực và được tiếp tế.  Nếu ta bất ngờ phản công toàn diện thì địch sẽ bị dễ giàn tiêu diệt.



Kết Luận

Ba chiến thuật tập kích, phục kích và du kích là đều là phương thức lấy ít đánh nhiều.  "lấy ít" là một lực lượng tinh nhuệ và di chuyển nhanh nhẹ, cơ động rất cao.

Phương châm đánh du kích
"Ta biết rõ giặc, giắc không biết rõ ta"
Tại vì ta đánh lén, đánh úp

"Đi nhẹ không tăm, về làng không tiếng"
Tại vì ta bí mật

"Tiến nhanh như gió, thoái kín như đêm"
Tại vì ta nhanh nhẹ và cơ động

"Phục giắc không biết, đánh giặc không ngờ"
Tại vì ta mưu trí.



Thiên Thứ Chín - Hành Quân


1)  Tôn Tử viết : Khi hành quân và dựng trại ở những dạng địa hình khác nhau, khi phán đoán tình hình quân địch, phải chú ý : ở vùng núi, phải dựa vào vùng sơn cốc có nước và cỏ, hạ trại tại chỗ cao, hướng về ánh sáng.
2)  Nếu địch chiếm được chỗ cao thì không đánh lên. Khi vượt sông, nên hạ trại xa bờ.
     
    Chú thích câu số 2,  Tấn công từ thấp lên cao sẽ rất là kho khăn và mệt mỏi.  Trong khi đó quân địch từ trên cao đánh xuống thì được lợi thế hơn quân mình.  Khi quân mình vượt qua sông, không nên ha trại ở gần bờ, tại vì ban đêm quân địch có thể chèo thuyền mà phóng hỏa vào trại lính nếu mà mình đóng quân ở gần bờ sông.  Màn đêm u tối, rất khó mà ứng chiến với quân địch ở trên sông.  Còn hơn nữa quân địch có thể mai phục và phóng hỏa vào thuyền mình, thì sẽ bị thua to.
  
3)  Nếu địch vượt sông đánh ta, ta không nên giao chiến với địch ở dưới sông, chờ địch sang sông được phân nửa mới đánh thì được lợi.
    
    Chú thích câu số 3:  Một đàn quân rất là đông mà đang lần lược qua sông.  Nếu mà phân nữa số quân ở trên bờ, còn phân số nửa số quân ở dưới sông, lúc mình ra tay, thì số quân địch ở trên bờ sẽ ít hơn số quân mình.  Cộng vào đó phân nửa số quân còn lại của địch không thể tiếp ứng cho quân ở trên bờ tại vì còn bị két cứng đơ ở dưới sông.

4)  Nếu muốn quyết chiến với địch, nên bày trận sát bờ sông. Hạ trại bên bờ sông cũng phải chiếm chỗ cao, đón ánh sáng, không được theo hướng ngược dòng sông công địch.

    Chú thích câu số 4,  bày trận sát bờ sông thì quân sĩ mình sẽ bị bao vây ba mặt.  Quân mình sẽ không còn đường rút lui nào khác nữa.  Quyết định hay nhất liều chết và đánh nhau cho đến chết, quyết sống  mà diết quân địch.  Một khi con người đã vào đường cùng thì ý trí quyết sống để bảo tồn sinh mạng rất là cao.  Sức đề khánh rất là mãnh liệt.  Tôn Tữ muỗn khai thác sức mạnh mãnh liệt như vậy để quyết chiến với quân thù.  Đó là đòn tâm lý rất là hay, và lịch sử đã từng chích khiến những trận đánh như vậy.

5)  Nếu gặp vùng đầm lầy nước mặn (salt-marsh), phải ở gần nơi có nước và cỏ, lưng dựa vào lùm cây.



    
   Chú thích câu số 7, địa thế đầm lầy rất là khó khăn trong một đại quân với số quân lên đến trăm ngàn người đi qua.  Cho nên Tôn Tử rút ra được kinh nghiêm trong địa thế này thì phải tìm nhưng nơi có nước và cỏ.  Tại vì nhưng nơi có cỏ mộc lên thì sẽ có đất cứng hơn và không bị luống lầy.  Có nước thì có thể dùng tiêu sài, ăn uống.  Địa thế đầm lầy thì sẽ dễ bị thiếu nước uống cho quân lính. Lưng tựa vào lùm cây tại vì lùm cây có thể làm thành một cái bức màn  binh phong thiên nhiên, hay là một lá chán để bảo vệ quân sĩ và phòng bị trường họp bị quân địch tấn công ở đằng sau.

6)  Nếu gặp vùng đồng bằng, phải chiếm nơi rộng rãi, bên phải có gò cao, phía trước mặt thấp, phía sau lưng cao. Nhờ lợi thế của 4 cách xử trí đó mà Hoàng Đế đã thắng 4 vị vua khác.



   
     Chú thích câu số 6: Đây là phần phân tích bốn lợi thế ở địa thế đồng bằng.
    1)  Lợi thế phía sau lưng cao, thời xưa lúc đàn quân thường là đàn quân ra hàng ngang.  Sau đó rồi tấn công.  Nếu mà đàn quân ra hàng ngang, phía sau lưng cao có nghĩa là ta đàn quân từ trên gò đánh xuống gò.  
    2)  Lợi thế bên phải có gò cao, để làm lá chán thiên nhiên ở bên cặnh sườn quân ta.  Phòng thủ không cho quân địch tấn công ở bên sườn quân mình.  
    3) Phía trước mặt thì đất thập, và dóc xuồng, thì quân địch phải mệt mỏi trong lúc tấn công quân ta.  Lý do là quân địch phải chạy bộ lên dóc thì sẽ mệt mỏi hơn là thì quân ta từ trên dóc đánh xuống.
    4) Phải chiếm nơi rộng rải, là để cho quân ta có thể dễ giàng di chuyển và ứng cứu nhau.

7)  Phàm hạ trại nên ở nơi cao ráo tránh ẩm thấp, ở nơi sáng tránh chỗ tối tăm, ở nơi gần cỏ và nước có đường vận chuyển quân nhu tiện lợi, tướng sĩ không bị nhiễm bệnh, đó là đảm bảo cho chiến thắng.
8)  Hành quân ở vùng nhiều gò đống, đê điều, tất phải chiếm phần cao ráo sáng sủa, chủ yếu dựa vào phía bên phải.
9)  Cái lợi của cách dùng binh này là được lợi thế địa hình hỗ trợ.
10)                    Phần thượng lưu mưa lớn tất nước sông sẽ dâng lên, nhất định không được vượt sông, phải chờ khi nước rút.
11)                    Hành quân qua những vùng như “Thiên giản” là khe suối hiểm trở, “Thiên tỉnh” là nơi vách cao vây bộc, “Thiên lao” là nơi 3 mặt bị vây vào dễ ra khó, “Thiên hãm” là nơi đất thấp lầy lội khó vận động, “Thiên khích” là nơi hẻm núi khe hở. Khi gặp 5 loại địa hình đó tất phải gấp rút chuyển đi, không nên đến gần, để cho địch ở gần nơi đó, ta nên hướng mặt về phía địa hình ấy mà cho địch xoay lưng vào đó.

   Chú thích : Mai Nghiêu Thần, một nhà chú giải sách Tôn tử (Tôn tử thập gia chú) chú rằng: Trước sau hiểm dốc, nước chảy ngang ở giữa là tuyệt giản (suối ngăn); bốn mặt đều có suối khe chảy về là thiên tỉnh (giếng trời); ba mặt cách tuyệt, dễ vào khó ra là thiên lao (cũi trời); cỏ cây chằng chịt, gươm mác khó trở là thiên la (lưới trời); thấp lội trơn bẩn, xe ngựa chẳng thông là thiên hãm (bẫy trời); hai núi chạm nhau, đường hang chật hẹp là thiên khích (khe trời)

12)                    Hành quân qua những nơi mà hai bên sườn có nhiều chỗ hiểm trở, ao hồ đầm lầy, lau sậy um tùm, cây cối rậm rạp tất phải thận trọng dò xét vì đó là những nơi địch dễ có thể mai phục.
13)                     Địch đã đến gần mà vẫn yên tĩnh là chúng đã chiếm được địa hình hiểm yếu thuận lợi. Địch ở xa mà đến khiêu chiến là chúng muốn dẫn dụ ta tiến lên.
14)                    Địch đóng quân ở nơi bằng phẳng là đã chiếm được địa hình lợi thế.
15)                    Cây cối rung động là địch đang lặng lẽ tiến gần. Trong cỏ có nhiều chướng ngại vật là địch cố ý bày nghi trận, chim xáo xác bay lên là bên dưới có phục binh.
16)                    Thú kinh hãi bỏ chạy là địch kéo quân đến đánh úp.
17)                    Bụi bốc cao mà nhọn là chiến xa địch tới, bụi bay thấp mà tản rộng là địch kéo bộ binh đến.
18)                    Bụi bay tản mác là địch chia quân đi kiếm củi. Bụi bay ít mà lúc có lúc không là địch đang dựng trại.
19)                    Sứ giả nói năng khiêm nhượng mà địch lại tăng cường là đang chuẩn bị tiến công.
20)                    Sứ giả nói cứng lại giả tiến lên là địch đang chuẩn bị lui.
21)                    Chiến xa hạng nhẹ chạy ra hai bên sườn là địch đang bày thế trận.
22)                    Địch chưa thua đã vội cầu hòa là đang có âm mưu.
23)                    Địch gấp bày trận là đã định kỳ hạn tấn công.
24)                    Địch nửa tiến nửa lui là đang muốn dụ ta.
25)                    Quân lính chống binh khí làm thế đứng dựa vào là đang … đói bụng.
26)                    Quân địch đi lấy nước mà uống trước mới đem về là địch đang khát.
27)                    Địch thấy lợi mà không tiến lên tranh đoạt là đang mệt mỏi.
28)                    Chim chóc đậu trên doanh trại địch là trại đang bỏ trống.
29)                     Đang đem địch hốt hoảng gọi nhau là biểu hiện hoảng sợ.
30)                     Quân lính trong trại nhiễu loạn là tướng địch không có uy nghiêm.
31)                    Cờ xí ngả nghiêng là đội ngũ địch đã rối loạn.
32)                    Quan quân dễ nổi nóng là toàn quân đã mệt mỏi.
33)                     Dùng cả lương thực cho ngựa ăn, giết ngựa lấy thịt, thu dọn dụng cụ nấu ăn, lính không về trại là địch đã khốn cùng, liều chết phá vòng vây.
34)                    Quân lính thì thầm bàn tán là tướng địch không được lòng quân.
35)                    Liên tiếp khao thưởng quân sĩ là địch không có biện pháp hành động, liên tiếp trừng phạt hạ cấp là quân địch đang quẫn bách.
36)                    Thoạt đầu hung hãn, sau lại sợ sệt cấp dưới là tướng địch quá dốt, trí lực quá kém.
37)                    Phái sứ đến tặng quà (hối lộ) và nói năng mềm mỏng là địch muốn đình chiến.
38)                     Địch giận dữ kéo quân bày trận đối diện với quân ta mà đã lâu lại không tiến không lui thì ta nên cẩn trọng xem xét vì sợ địch đang có mưu kế.
39)                    Đánh trận không cốt lấy quân đông, không nên khinh địch tiến liều mà phải tập trung lực lượng, phán đoán tình hình, tranh thủ sự tín nhiệm và ủng hộ của hạ cấp là được.

      Chú thích câu số 39:  Tôn Tử không chủ trương chiến thuật lấy thịt đè người, không chủ trương khinh địch tấn công liều mạng mà không tính toán cho thất kỹ lưỡng.  Trong khi đó Tôn Tử chủ trương phán đoán tình hình kỹ càng sau đó phải tập trung lực lượng tạo lên sức mạnh sấm sét rồi mời ra tay tấn công. Quan trọng nhất là tướng sĩ cùng lòng sống chết với nhau mà chiến đấu.  Hơn thế nữa, Tôn Tử chủ trương lấy được lòng người quyết chiến vì nước, vì xa tắc.  Dân chúng tin tưởng vào đường lối chích trị,  ửng hộ vào người lãnh đạo tốt, người tướng giỏi là những yếu tố quan trọng nhất để thắng trận.
40)                    Kẻ không biết nhìn xa trông rộng lại khinh địch ắt hẳn bị địch bắt.
41)                    Chưa có ân đức đã vội ra uy trừng phạt thì quân sĩ không phục.
42)                     Quân sĩ không phục thì khó có thể sai khiến được. Đã có ân đức với quân sĩ mà không áp dụng kỷ luật quân pháp thì cũng không thể sai khiến được họ.
43)                    Vì thế mà phải mềm mỏng, độ lượng để quân sĩ đồng lòng, dùng quân pháp nghiêm minh để quân sĩ nhất nhất tề chỉnh thì mới có thể khiến quân sĩ kinh sợ và phục tùng.
44)                    Uy lệnh có nghiêm thì quân sĩ mới quen phục tùng.

       Chú thích câu 41 - 44, Tôn Tử đàng bàn đến nghệ thuật sài đòn tâm lý với quân lính.

45)                    Thời bình mà mệnh lệnh được nghiêm chỉnh chấp hành thì đó là tướng đã phục được lòng quân, trên dưới đều được hòa thuận hợp nhất.