Monday, September 10, 2012

Thiên Thứ Chín - Hành Quân


1)  Tôn Tử viết : Khi hành quân và dựng trại ở những dạng địa hình khác nhau, khi phán đoán tình hình quân địch, phải chú ý : ở vùng núi, phải dựa vào vùng sơn cốc có nước và cỏ, hạ trại tại chỗ cao, hướng về ánh sáng.
2)  Nếu địch chiếm được chỗ cao thì không đánh lên. Khi vượt sông, nên hạ trại xa bờ.
     
    Chú thích câu số 2,  Tấn công từ thấp lên cao sẽ rất là kho khăn và mệt mỏi.  Trong khi đó quân địch từ trên cao đánh xuống thì được lợi thế hơn quân mình.  Khi quân mình vượt qua sông, không nên ha trại ở gần bờ, tại vì ban đêm quân địch có thể chèo thuyền mà phóng hỏa vào trại lính nếu mà mình đóng quân ở gần bờ sông.  Màn đêm u tối, rất khó mà ứng chiến với quân địch ở trên sông.  Còn hơn nữa quân địch có thể mai phục và phóng hỏa vào thuyền mình, thì sẽ bị thua to.
  
3)  Nếu địch vượt sông đánh ta, ta không nên giao chiến với địch ở dưới sông, chờ địch sang sông được phân nửa mới đánh thì được lợi.
    
    Chú thích câu số 3:  Một đàn quân rất là đông mà đang lần lược qua sông.  Nếu mà phân nữa số quân ở trên bờ, còn phân số nửa số quân ở dưới sông, lúc mình ra tay, thì số quân địch ở trên bờ sẽ ít hơn số quân mình.  Cộng vào đó phân nửa số quân còn lại của địch không thể tiếp ứng cho quân ở trên bờ tại vì còn bị két cứng đơ ở dưới sông.

4)  Nếu muốn quyết chiến với địch, nên bày trận sát bờ sông. Hạ trại bên bờ sông cũng phải chiếm chỗ cao, đón ánh sáng, không được theo hướng ngược dòng sông công địch.

    Chú thích câu số 4,  bày trận sát bờ sông thì quân sĩ mình sẽ bị bao vây ba mặt.  Quân mình sẽ không còn đường rút lui nào khác nữa.  Quyết định hay nhất liều chết và đánh nhau cho đến chết, quyết sống  mà diết quân địch.  Một khi con người đã vào đường cùng thì ý trí quyết sống để bảo tồn sinh mạng rất là cao.  Sức đề khánh rất là mãnh liệt.  Tôn Tữ muỗn khai thác sức mạnh mãnh liệt như vậy để quyết chiến với quân thù.  Đó là đòn tâm lý rất là hay, và lịch sử đã từng chích khiến những trận đánh như vậy.

5)  Nếu gặp vùng đầm lầy nước mặn (salt-marsh), phải ở gần nơi có nước và cỏ, lưng dựa vào lùm cây.



    
   Chú thích câu số 7, địa thế đầm lầy rất là khó khăn trong một đại quân với số quân lên đến trăm ngàn người đi qua.  Cho nên Tôn Tử rút ra được kinh nghiêm trong địa thế này thì phải tìm nhưng nơi có nước và cỏ.  Tại vì nhưng nơi có cỏ mộc lên thì sẽ có đất cứng hơn và không bị luống lầy.  Có nước thì có thể dùng tiêu sài, ăn uống.  Địa thế đầm lầy thì sẽ dễ bị thiếu nước uống cho quân lính. Lưng tựa vào lùm cây tại vì lùm cây có thể làm thành một cái bức màn  binh phong thiên nhiên, hay là một lá chán để bảo vệ quân sĩ và phòng bị trường họp bị quân địch tấn công ở đằng sau.

6)  Nếu gặp vùng đồng bằng, phải chiếm nơi rộng rãi, bên phải có gò cao, phía trước mặt thấp, phía sau lưng cao. Nhờ lợi thế của 4 cách xử trí đó mà Hoàng Đế đã thắng 4 vị vua khác.



   
     Chú thích câu số 6: Đây là phần phân tích bốn lợi thế ở địa thế đồng bằng.
    1)  Lợi thế phía sau lưng cao, thời xưa lúc đàn quân thường là đàn quân ra hàng ngang.  Sau đó rồi tấn công.  Nếu mà đàn quân ra hàng ngang, phía sau lưng cao có nghĩa là ta đàn quân từ trên gò đánh xuống gò.  
    2)  Lợi thế bên phải có gò cao, để làm lá chán thiên nhiên ở bên cặnh sườn quân ta.  Phòng thủ không cho quân địch tấn công ở bên sườn quân mình.  
    3) Phía trước mặt thì đất thập, và dóc xuồng, thì quân địch phải mệt mỏi trong lúc tấn công quân ta.  Lý do là quân địch phải chạy bộ lên dóc thì sẽ mệt mỏi hơn là thì quân ta từ trên dóc đánh xuống.
    4) Phải chiếm nơi rộng rải, là để cho quân ta có thể dễ giàng di chuyển và ứng cứu nhau.

7)  Phàm hạ trại nên ở nơi cao ráo tránh ẩm thấp, ở nơi sáng tránh chỗ tối tăm, ở nơi gần cỏ và nước có đường vận chuyển quân nhu tiện lợi, tướng sĩ không bị nhiễm bệnh, đó là đảm bảo cho chiến thắng.
8)  Hành quân ở vùng nhiều gò đống, đê điều, tất phải chiếm phần cao ráo sáng sủa, chủ yếu dựa vào phía bên phải.
9)  Cái lợi của cách dùng binh này là được lợi thế địa hình hỗ trợ.
10)                    Phần thượng lưu mưa lớn tất nước sông sẽ dâng lên, nhất định không được vượt sông, phải chờ khi nước rút.
11)                    Hành quân qua những vùng như “Thiên giản” là khe suối hiểm trở, “Thiên tỉnh” là nơi vách cao vây bộc, “Thiên lao” là nơi 3 mặt bị vây vào dễ ra khó, “Thiên hãm” là nơi đất thấp lầy lội khó vận động, “Thiên khích” là nơi hẻm núi khe hở. Khi gặp 5 loại địa hình đó tất phải gấp rút chuyển đi, không nên đến gần, để cho địch ở gần nơi đó, ta nên hướng mặt về phía địa hình ấy mà cho địch xoay lưng vào đó.

   Chú thích : Mai Nghiêu Thần, một nhà chú giải sách Tôn tử (Tôn tử thập gia chú) chú rằng: Trước sau hiểm dốc, nước chảy ngang ở giữa là tuyệt giản (suối ngăn); bốn mặt đều có suối khe chảy về là thiên tỉnh (giếng trời); ba mặt cách tuyệt, dễ vào khó ra là thiên lao (cũi trời); cỏ cây chằng chịt, gươm mác khó trở là thiên la (lưới trời); thấp lội trơn bẩn, xe ngựa chẳng thông là thiên hãm (bẫy trời); hai núi chạm nhau, đường hang chật hẹp là thiên khích (khe trời)

12)                    Hành quân qua những nơi mà hai bên sườn có nhiều chỗ hiểm trở, ao hồ đầm lầy, lau sậy um tùm, cây cối rậm rạp tất phải thận trọng dò xét vì đó là những nơi địch dễ có thể mai phục.
13)                     Địch đã đến gần mà vẫn yên tĩnh là chúng đã chiếm được địa hình hiểm yếu thuận lợi. Địch ở xa mà đến khiêu chiến là chúng muốn dẫn dụ ta tiến lên.
14)                    Địch đóng quân ở nơi bằng phẳng là đã chiếm được địa hình lợi thế.
15)                    Cây cối rung động là địch đang lặng lẽ tiến gần. Trong cỏ có nhiều chướng ngại vật là địch cố ý bày nghi trận, chim xáo xác bay lên là bên dưới có phục binh.
16)                    Thú kinh hãi bỏ chạy là địch kéo quân đến đánh úp.
17)                    Bụi bốc cao mà nhọn là chiến xa địch tới, bụi bay thấp mà tản rộng là địch kéo bộ binh đến.
18)                    Bụi bay tản mác là địch chia quân đi kiếm củi. Bụi bay ít mà lúc có lúc không là địch đang dựng trại.
19)                    Sứ giả nói năng khiêm nhượng mà địch lại tăng cường là đang chuẩn bị tiến công.
20)                    Sứ giả nói cứng lại giả tiến lên là địch đang chuẩn bị lui.
21)                    Chiến xa hạng nhẹ chạy ra hai bên sườn là địch đang bày thế trận.
22)                    Địch chưa thua đã vội cầu hòa là đang có âm mưu.
23)                    Địch gấp bày trận là đã định kỳ hạn tấn công.
24)                    Địch nửa tiến nửa lui là đang muốn dụ ta.
25)                    Quân lính chống binh khí làm thế đứng dựa vào là đang … đói bụng.
26)                    Quân địch đi lấy nước mà uống trước mới đem về là địch đang khát.
27)                    Địch thấy lợi mà không tiến lên tranh đoạt là đang mệt mỏi.
28)                    Chim chóc đậu trên doanh trại địch là trại đang bỏ trống.
29)                     Đang đem địch hốt hoảng gọi nhau là biểu hiện hoảng sợ.
30)                     Quân lính trong trại nhiễu loạn là tướng địch không có uy nghiêm.
31)                    Cờ xí ngả nghiêng là đội ngũ địch đã rối loạn.
32)                    Quan quân dễ nổi nóng là toàn quân đã mệt mỏi.
33)                     Dùng cả lương thực cho ngựa ăn, giết ngựa lấy thịt, thu dọn dụng cụ nấu ăn, lính không về trại là địch đã khốn cùng, liều chết phá vòng vây.
34)                    Quân lính thì thầm bàn tán là tướng địch không được lòng quân.
35)                    Liên tiếp khao thưởng quân sĩ là địch không có biện pháp hành động, liên tiếp trừng phạt hạ cấp là quân địch đang quẫn bách.
36)                    Thoạt đầu hung hãn, sau lại sợ sệt cấp dưới là tướng địch quá dốt, trí lực quá kém.
37)                    Phái sứ đến tặng quà (hối lộ) và nói năng mềm mỏng là địch muốn đình chiến.
38)                     Địch giận dữ kéo quân bày trận đối diện với quân ta mà đã lâu lại không tiến không lui thì ta nên cẩn trọng xem xét vì sợ địch đang có mưu kế.
39)                    Đánh trận không cốt lấy quân đông, không nên khinh địch tiến liều mà phải tập trung lực lượng, phán đoán tình hình, tranh thủ sự tín nhiệm và ủng hộ của hạ cấp là được.

      Chú thích câu số 39:  Tôn Tử không chủ trương chiến thuật lấy thịt đè người, không chủ trương khinh địch tấn công liều mạng mà không tính toán cho thất kỹ lưỡng.  Trong khi đó Tôn Tử chủ trương phán đoán tình hình kỹ càng sau đó phải tập trung lực lượng tạo lên sức mạnh sấm sét rồi mời ra tay tấn công. Quan trọng nhất là tướng sĩ cùng lòng sống chết với nhau mà chiến đấu.  Hơn thế nữa, Tôn Tử chủ trương lấy được lòng người quyết chiến vì nước, vì xa tắc.  Dân chúng tin tưởng vào đường lối chích trị,  ửng hộ vào người lãnh đạo tốt, người tướng giỏi là những yếu tố quan trọng nhất để thắng trận.
40)                    Kẻ không biết nhìn xa trông rộng lại khinh địch ắt hẳn bị địch bắt.
41)                    Chưa có ân đức đã vội ra uy trừng phạt thì quân sĩ không phục.
42)                     Quân sĩ không phục thì khó có thể sai khiến được. Đã có ân đức với quân sĩ mà không áp dụng kỷ luật quân pháp thì cũng không thể sai khiến được họ.
43)                    Vì thế mà phải mềm mỏng, độ lượng để quân sĩ đồng lòng, dùng quân pháp nghiêm minh để quân sĩ nhất nhất tề chỉnh thì mới có thể khiến quân sĩ kinh sợ và phục tùng.
44)                    Uy lệnh có nghiêm thì quân sĩ mới quen phục tùng.

       Chú thích câu 41 - 44, Tôn Tử đàng bàn đến nghệ thuật sài đòn tâm lý với quân lính.

45)                    Thời bình mà mệnh lệnh được nghiêm chỉnh chấp hành thì đó là tướng đã phục được lòng quân, trên dưới đều được hòa thuận hợp nhất.

No comments:

Post a Comment