Wednesday, August 29, 2012

Thiên Thứ Bảy - Quân Tranh



1)     Tôn Tử viết : Phàm dụng binh chi pháp …ý quên … phép dùng binh thường, tướng soái nhận lệnh vua, trưng tập dân chúng, tổ chức quân đội, sau mới bày trận đối địch.
2)     Trong quá trình đó, khó nhất là quân tranh, nghĩa là giành lấy lợi thế.

     Chú thích: câu số 2 Tôn Tử định nghĩa quân tranh là giàng lấy lợi thế.  Lợi thế là yếu tố rất là quan trọng mà tác giả muốn đề cao trong chương này.  Các bạn phải liêu ý đến vấn đề lợi thế trong khi tác chiến.
     
3)     Cái khó nhất của việc này là phải biến đường vòng thành đường thẳng, biến bất lợi thành có lợi.

     Chú thích:  câu số ba nói lên sự khó khăn trong lúc quân tranh. Làm như thế nào mà từ thế bất lợi để thành có lợi.  Đó là một quá trình rất là khó khăn.  Làm sao mà thay đổi được tình thế là sự không phải là dễ.  Làm sao mà tạo dựng được tình thế thuận lợi.  Đó là một quá trình sáng tạo, một quá trình nghệ thuật khéo léo, uyên truyển và thích nghi trong mọi tình huống hoàn cảnh.

4)     Tuy đi đường vòng nhưng lấy cái lợi nhỏ dụ địch thì mới có thể xuất phát sau mà tới được trước yếu địa cần tranh, thế là hiểu được phương pháp biến cong thành thẳng.
     
      Chú thích câu số 4, Tôn Tử cố ý muốn nói đến sự dụ địch bằng cái lợi nhỏ.  Có rất là hình thức để dụ địch.  Có thể lấy tiền bạc mua chuộc, mỹ nhân, danh vọng, khiêu khích và vân vân ...   Ví dụ, dả vờ thua bỏ chạy, dụ quân địch đuổi rượt vào trận địa mai phục.  Dả vờ bỏ chạy, là mình làm cho địch thừa thắng song lên, truy kích quân mình đến cùng,  Bên mình phải bắt buộc hy sinh một số thương vong mà làm cho địch không bị nghi ngờ.  Một khi chúng vào ổ mai phục thì xẽ bị đánh tơi bời.

5)     Quân tranh vừa có cái lợi, vừa có nguy hiểm.
6)     Nếu đem toàn quân có trang bị nặng nề đi tranh thì không thể đạt được dự định, nếu bỏ lại trang bị nặng thì trang bị nặng sẽ tổn thất.

     Chú thích câu số 5-6,  Trong khi tranh giành lợi thế, bên mình vừa có cái lợi, vừa có nguy hiểm.  Phải biết cả hai mặt lợi điểm và hại điểm.  Phải hiểu, và thông suốt cả hai mặt thì mình mới có thể ra cái quyết định hay nhất. Làm sao cho sự nguy hiểm  hạn chế lại và lợi điểm phát huy lên.  Trong thời nay, khái niệm này có đã được phát triển thành một môn học chuyên môn đó là môn học quản lý sự ruổi ro (risk management).  Mọi quyết định đều có sự ruổi ro hết cả.  Trong câu 6, Tổn Tử đã cân nhắc vấn đề trang bị vũ khí hạng nặng hay là trang bị vũ khí hạng nhẹ cho quân sĩ trong lúc đi tranh giành lợi thế.  Trang bị hạng nặng có lợi thế là an toàn, mà yếu điểm là nặng nề, không thể di chuyển nhanh lẹ.  Còn nếu trang bị hạng nhẹ, thì di chuyển thuận tiện và nhanh nhẹ, như mà lại không có áo giáp bảo vệ an toàn.

7)     Vì thế, cuốn giáp tiến gấp, ngày đêm không nghỉ để đi trăm dặm tranh lợi thì tướng lĩnh ba quân có thể bị bắt, lính khỏe tới trước, yếu tới sau.
8)     Cuối cùng chỉ có một phần mười binh lực đến trước. 

     Chú thích câu số 7-8:  Trong trường hợp tiến quân tốc hành tiến nhanh, tiến sâu vào nước địch,  thì 1/10 quân mạnh sẽ đến trước, phần còn lại thì từ từ đến nơi.


9)     Đi năm mươi dặm tranh lợi, tướng lĩnh tiền quân sẽ bị chặn, chỉ có một nửa binh lực tới trước. 

     Chú thích câu số 9:  tiến nhanh tiến sâu vào nước địch 50 dặm thì 1/2 quân khỏe mạnh đến trước, còn 1/2 quân yếu đến sau


10)                    Đi ba mươi dặm tranh lợi, chỉ có hai phần ba binh lực tới trước. 
     Chú thích câu số 10:  tiên nhanh tiến sâu vào lãnh thổ nước địch 30 dặm, thì 2/3 quân khỏe mạnh đến trước, còn lại 1/3 quân yếu đến sau.



11)                    Quân đội không có trang bị nặng ắt thua, không có lương thảo ắt chết, không có vật tư ắt khó sống.

    Chú thích:  Quân đội nào tiến nhanh, tiến sâu, trong khi đó quân tiếp viện, tiếp thế, quân nhu không đi cùng thì sẽ bị thiếu thốn lương thảo và vũ khí.  Khi gặp dịch sẽ khó sống.




12)                    Chưa biết ý đồ chiến lược của các chư hầu, không thể tính việc kết giao ; chưa thông địa hình sông núi, đầm hồ, không thể hành quân ; không dùng người dẫn đường không thể chiếm địa lợi.

     Chú thích câu số 12:  Tôn Tử nhận mạnh về sự thông tin, tình báo là một yết tốt rất là quan trọng trong mọi tình huống.  Ví dụ, phải cần có thông tin về các nước trước khi mà ngoại giao với các nước láng giềng.  Phải có thông tin, về địa thế trước khi mà hành quân.  Phải có chuyên gia dẫn đường, thì mới vào chiếm địa để giành lấy lợi thế.

13)                    Dùng binh đánh trận phải dựa vào biến hóa gian trá mới mong thành công, phải căn cứ vào chỗ có lợi hay không mà hành động, tùy sự phân tán hay tập trung binh lực mà thay đổi chiến thuật.

     Chú thích câu số 13,  trong lúc đánh trận, muốn được cầu thắng thì phải biết biến hóa, tùy cơ ứng biết, và quan trọng nhất là phải gian trá, mưu mô, thì mới có huy vọng được thành công.  Nêu mà đường đường chính chính thì khó mà thành công đâu.  Một khi hai bên đều có lực lượng hùng hậu bằng nhau thì phải có thêm yếu tố gian trá, thì huy vọng sẽ  mang về thành công và chiến thắng.

14)                    Quân đội hành động thần tốc thì nhanh như gió cuốn, hành động chậm rãi thì lừng khừng như rừng rậm, khi tấn công thì như lửa cháy, khi phòng thủ thì như núi đá, khi ẩn mình thì như bóng tối, khi xung phong thì như sấm sét.

    Chú thích câu số 14,  Đây là phương châm chiến đấu.

15)                    Chiếm được làng xã phải phân binh đoạt lấy, mở rộng lãnh thổ, phải phân binh trấn giữ ; cân nhắc lợi hại được mất rồi mới tùy cơ hành động.
16)                    Trước hết phải rõ phương pháp biến cong thành thẳng để giành thắng lợi, ấy là nguyên tắc hành quân.
      
     Chú thích: câu số 16.  phải biến cách sáng xuất để giải quyết mọi vẫn đề vấn đề khó khăn, vất vả trong lúc giao tranh.  Biến sự khó khăn thành không khó khăn để mang đến thắng lợi.

17)                     Quân Chính viết : “Ngôn bất tương văn, cố vi kim cổ, thị bất tương kiến, cố vi tinh kỳ” có nghĩa là “khi tác chiến mà dùng lời nói chỉ huy e quân nghe không được, phải cần đến chiêng trống ; dùng động tác e quân không nhìn thấy, phải cần đến cờ lệnh.
18)                    Chiêng trống, cờ lệnh dùng để thống nhất hành động của toàn quân.

     Chú thích câu số 18,  Chiêng trống, cờ lệnh là những phương tiện được dùng để làm thông tin, và ban bố mệnh lệnh cho quân sĩ trong lúc hành quân và đánh nhau.

19)                    Toàn quân đã hành động nhất nhất thì người lính dũng cảm không thể tiến một mình, người lính nhút nhát cũng không thể lùi một mình, đó là phương pháp chỉ huy toàn thể đội hình tác chiến”.
     
     Chú thích câu số 19,  Phải đào tạo quân sĩ làm sao cho quân sĩ đồng tâm, đồng trí, quyết chiến, quyết thắng.

20)                    Đối với quân địch, có thể làm tan nhuệ khí của chúng ; đối với tướng địch, có thể làm dao động quyết tâm của họ.
     
     Chú thích câu số 20:  Phải làm sao cho nhuệ khí quân sỉ của địch yếu đi, ý chí chiến đấu của ta thăng lên thì mới tham chiến.  Và quan trọng hơn nữa là phải đánh tan quyết tâm của tướng địch. Đấy là phương pháp làm chủ được ý chí chiến tranh.  Muốn cho quân sĩ có ý chí lên cao thì phải làm sao cho quân sĩ và nhân dân căp ghét, hân thù quân địch.  Làm sao cho tinh thần chuyến đấu được lên cao, đó là nhờ tuyên truyền.

21)                    Sĩ khí của quân đội lúc mới giao chiến thì hăng hái, sau một thời gian dần dần suy giảm, cuối cùng tiêu tan.
22)                    Người giỏi dùng binh phải tránh nhuệ khí hăng hái của địch cho đến khi nhuệ khí đó của chúng bị tiêu tan giảm sút thì đánh, đó là cách nắm chắc sĩ khí quân đội.
23)                     Lấy sự nghiêm chỉnh của quân ta đối phó với sự hỗn loạn của quân địch, lấy sự bình tĩnh của quân ta đối phó với sự hoang mang của quân địch, đó là cách nắm chắc tâm lý quân đội.
24)                    Lấy gần chờ xa, lấy nhàn chờ mệt (dĩ dật đãi lao),
25)                    lấy no chờ đói, đó là cách nắm chắc sức chiến đấu của quân đội.
26)                     Không đi chặn đánh quân địch đang có hàng ngũ chỉnh tề, không đánh kẻ địch có thế trận và lực lượng hùng mạnh, đó là cách nắm vững biến hóa chuyển động.

 Chú thích câu số 26:  phương châm đánh đích là không nên đánh vào chích diện, lúc mà chúng đang có khí huyết nổi lên, mà chờ đợi lúc chúng mệt mỏi.  Hay nói khác khắt, thì phải chờ ra lúc yếu mện, căng me lúc chúng sơ hở rồi mới ra tay tân công.
27)                    Nguyên tắc dùng binh là : địch chiếm núi cao thì không đánh lên, địch dựa vào gò đống thì không nên đánh chính diện, địch vờ thua chạy thì không nên đuổi theo, quân địch tinh nhuệ thì chưa nên đánh vội, địch cho quân ta nhử mồi thì mặc kệ chúng, địch rút về nước thì không nên chặn đường, bao vây quân địch nên chừa một lối thoát cho chúng, địch cùng khốn thì không nên quá bức bách chúng.
28)                    Phép dùng binh là như thế.

Thursday, August 23, 2012

Thiên Thứ Tám - Cửu Biến

Định Nghĩa:  


    
 Cửu Biến :  Cửu là số 9,  biến là biến hóa, thay đổi, ứng dụng, thích nghi, thích ứng.  Cửu biến có hàm ý nói lên sự muôn ngàn cách ứng biến, cách thích nghi, cách biến hóa, làm sao cho tốt nhất cho công việc.


1)       Tôn Tử viết :  Phàm dụng binh chi pháp, chủ tướng nhận lệnh của vua, tập hợp quân đội, quân nhu (giáo, khí, lương, tiền, …), khi xuất chinh ở “phỉ địa” thì không dựng trại, ở “cù địa”  phải kết giao với nước láng giềng, ở “tuyệt địa”  không được nấn ná, ở “vi địa”  thì phải tính kế, ở “tử địa”  phải liều chết quyết chiến.


Chú thích câu 1:   Ý chính của câu này nêu lên những ví dvcách slý trong những tình huống địa lý khác biệt.  Nếu mà gặp phải phđịa, cù địa, tuyệt địa, v địa, tđịa thì ứng s ra sao, giải quyết vẫn đề ra sao.  Mõi một địa lý có một đặt thù riêng, thì người tướng giỏi phải nắm vữa lý lđó mà hành ssao cho thích nghi, phù hợp với tình hình hiện tại.
 
Phỉ (kếm cỏi) địakhu vực có đất đá gề, lổm chổm, không có bằng phẳng, đất xấu và thì Tôn Tử skhông cho đóng dinh trại tại vì rất là bất tiện cho sự di chuyn và ứng phó với địch.  Có lẽ là quân sĩ của Tôn Tử không có được chuẩn bvà huấn luyn giao chiến cho địa thế này.
Phỉ địa gò gề, khó khăn di chuyển cho người và ngựa
Phỉ địa này không thuận tiện để lập dinh trai, và đóng quân
Cù (rộng, lớn) địađất có đường lớn thông suốt, đường dài và rộng, phải giao thiếp vời đng minh để có được tiếp tế lương thực hay là được ẩn chú.
Cù địa rộng lớn, thông suốt, xa sôi ngàn dặm, không có dân cư, không có núi, sông cản chở sự đi chuyển của bộ binh
Cù địa đồng bằng bao la, bát ngát, thông suốt
Tuyệt địa là  khu vực bị quân địch cánh ly, bị cô lập, bị ngăn cánh, với đường tiếp tế lương thực, tiếp tế quân lực.  Hay là khu vực bảnh hưởng của địa thế thiên nhiên khô cằng, không có nước non, không có cây cỏ sống được và không có thể nuôi quân được.  Núi cao ngăn chsự di chuyển, làm cho tốc độ chập lại.
Tuyệt địa kho cằn, không có nước, không có dân cư, không có thể lấy nước nuôi quân sĩ
Vđịa là khu vực nhỏ là hẹp, dể bị bao vây, hay là đất bị vây.  Ví dụ mình hành quân ở trong hẻm núi thì dễ bị chn hai đầu, bao vây bốn từ trên cao bắn cúng, lăn gđá xuống và đốt lửa.
Vi địa đường đi nhỏ hẹp hai bên là vắt núi, dễ bị mai phục
Vi địa là thung lũng có con đường mòn ở giữa hai cái núi
Tđịa là địa thế trong đường cùng do sông, núi, hay là vật cẳn bao quanh bốn phương tám hướng.  Nói cánh khác là bị mắc kẹt không còn lối thoát.
Tử địa đây là hình ảnh quân đội Mỹ đổ bộ ở bờ biển Normady, một khi lên bờ là sẻ không có đường rút lúi, phải sống chết đánh cho đến cùng
Tử địa, quân đội Mỹ chuẩn bị cập bờ biển Normandy và giao tranh với quân Đức Quốc Xã
   
2)  Có những đường không nên đi, có những loại địch không nên đánh, có những thành không nên công, có những vùng không nên giành, có những lệnh vua không nên nghe.

Chú thích câu số 2:  có những con đường không nên đi tại vì d bị quân địch mai phục hay là không thuân tiện.  có những loại đch không nên đánh tại vì có đánh thắng đi nữa đi thì cũng không có ít lợi gì cho chiến lược.  Có những thành không nên lấy tại vì có lấy được nhưng mà sẽ không giữ được.  Theo kinh nghiệp người xưa, nếu muốn công thành thì lực lượng phải mạnh hơn ít nhất gấp 3 lần.  Chiếm xong thành sẽ bị hao tổn binh lực rất nhiều, cho nên sẽ khó mà giữ thành được lâu dài.  Có thể lực lượng đối phương thừa cơ đành vào thì rất là dễ mất hết tất cả.  Có những vùng không lên lấy, lấy xong rồi thì chưa chắc giữ được lâu dài.   Và nêú mình không lấy thì cũng không ảnh hưởng gì đến bối cục toàn diện.  Bởi vậy lấy làm gì cho tốn công tốn sức.  Có những lệnh vua không nên nghe, tại vì không phải vua lúc nào cũng có những quyết định là đúng hết trên phương diện chiến thuật hay là chiến lược trong mọi hoàn cảnh sát với thực tế tình hình chiến trường.

3)       Tướng lĩnh tinh thông những ứng biến trên mới là người biết cách dùng binh. 

      Chú thích câu 1-3 : Tôn Tử muốn nói lên đặt điểm quan trọng nhất là phải hiểu biết sâu rộng về địa thế, tình hình chiến tranh.  Phải biết phân tích, suy luận sâu sắc,  phải thông hiểu rõ ràng sự việc.  Và cuối cùng là biết ứng phó với mọi hoàn cảnh một cách biến hóa, kheo léo, thích nghi vào từng trường hợp.

4)       Không tinh thông nhưng ứng biến ấy, dù có nắm được địa hình cũng không thể giành được địa lợi. 

      Chú thích câu số 4:  Tướng quân không có kiến thức, hiểu biết sự việc, địa hình, không có khinh nghiệm trong chiến trường, nhưng mà biết ứng biến, dù có lấy được địa hình tốt cũng không phát huy điểm lợi thế.  Tại vì không có dủ khiến thức.


5)       Chỉ huy quân đội mà không biết dùng những ứng biến ấy thì dù biết năm điều lợi cũng không thể phát huy được toàn bộ tác dụng của quân đội.

      Chú thích câu số 5: ngược lại với câu số 4, người tướng quân, có kiến thức, có hiểu biết mà không có biêt ứng biến, áp dụng thì cũng không phát huy được toàn bộ địa hình thuận lợi.


6)       Tướng lĩnh thông minh suy tính tất phải cân nhắc hai phương diện lợi hại.

      Chú thích câu số 6,  Tôn Tử đê ra phương thức so sánh mọi vấn đề trên hai phương diện lợi và hại.  Cùng trong một tình thế, phải biết ra cái lợi là gì, cái hại là gì, rồi mình cân nhắc cho kỹ lưỡng trước khi quyết định thi hành.  Quan trọng nhất là phải ứng biến, ứng sử làm sao cho phù hợp tình thế.

7)       Khi gặp tình hình bất lợi, phải tìm cho được điều lợi mới thành được đại sự. 

      Chú thích câu số 7: khi gặp phải vấn đề bất lợi khó khăn, phải mau dùng trí tìm ra phương thức hóa giải, thì mới mong thành đại sự.


8)       Gặp tình hình thuận lợi, phải cố thấy rõ những yếu tố bất lợi mới kịp thời giải trừ được tai biến.

      Chú thích câu số 8:  khi gắp tình thế thuận tiện, phải biết tận dụng khai thác triệt để, và phải tìm ra điểm yếu trong tình thế đó mà phòng thủ.


9)       Muốn khuất phục chư hầu, phải đánh vào chỗ nguy hại của họ ; muốn điều khiển chư hầu, phải buộc họ làm những việc họ không thể không làm ; muốn ép họ vào thế bị động, phải dùng lợi mà dẫn dụ họ.

     Chú thích câu số 9, muốn kìm chế địch thì phải đánh vào yếu điểm ở bên địch.  Ví dụ, Bàng Nguyên tướng quân nước Ngụy đem hết quân đi xâm chiếm nước Triệu.  Tôn Tấn nước Tề, muốn cứu nước Triệu bằng cách tấn công kinh dô nước Ngụy.  Vì Bàng Nguyên đã mang hết quân đi xâm chiếm nước Triệu, nên quân số ở trong kinh đô nước Ngụy rất là yếu.  Cho nên Bàng Nguyên đằng lòng tạm ngưng cuộc xâm lược và đêm quân về ứng cứu kinh đô nước Ngụy.
    Trong chiến tranh, muốn ép đôi phương vào thế bị động, thì phải dùng lợi mà đẫn dụ.  Lợi ở đây có nghĩa là mình giã vờ bị sơ hở để địch thấy vậy mà đánh chiếm lấy một nơi nào đó.  Ví dụ, mình muốn dụ đi đến một nơi nào đó, thì mình ra lênh cho một số ít quân lính đánh ở đây.  Quân địch sẻ phải ra tay điều một số quân để mà tiêu diệt.  Dụ được định ra tay, là ta đã ép họ vào thế bị động.  Bị động là phải làm theo ý muốn minh sấp đặt trước.  Chủ động là mình ra tay tạo lên tình thế, để quân địch phải ra tay phản ửng lại tình hình do mình đã lập ra trước đó.

10) Nguyên tắc dùng binh là : không chờ địch đến đánh ta, mà phải tập trung vào việc sắp sẵn kế sách đối phó ; không đợi địch tấn công ta, mà phải trông vào thành lũy của ta vững chắc, địch không thể hạ được.

      Chú thích câu số 10,  Tôn Tử bàn đến sự chuẩn bị kỹ càng là rất là quan trong.  Trong tình huống nào đi nữa tấn công hay phòng thủ, phải chuẩn bị cho thật chu đáo, và kỹ lưỡng, và tật tốt.  Điểm cốt yếu là phải ở trong thế chủ động.

11) Làm tướng có 5 điểm nguy hiểm : liều chết khinh suất có thể bị giết, tham sống sợ chết có thể bị bắt, nóng giận hồ đồ có thể mắc mưu, liêm khiết tự trọng không chịu được nhục nhã, thương dân có thể lo buồn bất an.
12) Phạm 5 sai lầm đó thì tai họa khó lường cho việc dùng binh.
13)  Quân bị diệt, tướng bị giết đều do 5 điểm nguy hiểm ấy mà ra, không thể không suy xét kỹ.

      Chú thích câu số 11 - 13,  năm điểm nguy hiểm Tôn Tử đã đề ra là:
          a) Liều chết khinh suất quân,  đánh liều mà không có suy nghĩ tính toán trước khi mà giao tranh.  Ỷ vào quân đội lớn mạnh và không đề phòng quân địch,  không cẩn thật tính toán thì củng có thể bị tiêu diệt.
          b) Tham sống sợ chết.  Trên phương diện tâm lý, chưa đánh mà đã sợ chết thì làm sao có thể quyết chiến được, chưa đánh mà đã lo sợ thì dể bị bắt.  Nhuốt nhát, quay lưng bỏ chạy sẽ để lộ ra  yếu điểm của con người.  Một khi quân lính quay lưng, thì quân địch tha hồ tiến lên chém diệt một cách tư dọ.  Kinh nghiệm ông bà mình nói rắng, sông pha tiến công thì dễ, rút quân thì rất là khó.  Rút luôi trong lúc giao tranh rất là khó giữ được mạng sống.        c) Nóng giận,  trong lúc nóng giận người tướng quyết định không đước sáng xuất, và suy nghĩ không được kỹ lượng.  Trong lúc nóng giận, con người sẽ hành động theo cảm súc bản năng của con người.  Mà vì vậy sẽ rất đễ bị mắc mưu, mắc kế của địch.
        d) Liêm khiết, rất là tự ái,  không chịu đựng được tiếng sỉ nhục, tiếng đồn, tiếng nói sấu của bên địch tuyên truyền.  Người như vầy thì sẽ hàng động nóng giận, và rất là đễ bị mắc mưu.
        e) Thương dân là lợi dùng tình cảm của con mình, mà khai thác chiết để để ép mình vào thể bị động.

Tuesday, August 21, 2012

Thiên Thứ Sáu - Hư Thực

Đinh Nghĩa Hư:
    là yếu, là trá hình, không có thật, là ít ỏi, là sức lực yếu kém, là vũ khi yếu kém, là tổ chức yếu kém.  Là tất cả mợi sự có tính chất yếu kém so với sự thông thường hay là tiêu chuẩn được đặt ra.

Thực:  là mạnh, là sung sức, là vữa chắc, là đầy đủ, là tốt. Là tất cả mội sự có tích chất mạnh và tốt so với sự thông thường hay là tiêu chuẩn được đặt ra.

 1)       Tôn Tử viết : Phàm đến chiến địa trước đợi địch là chiếm được thế chủ động an nhàn, đến chiến địa sau ứng chiến với địch là lâm vào thế mệt mỏi.  
2)       Vì thế, người chỉ huy tác chiến giỏi là người có thể điều khiển quân địch chứ không thể theo sự điều khiển của quân địch.
3)       Khiến quân địch đến nơi ta làm chủ trước là kết quả của việc dùng lợi nhỏ nhữ địch.
      Chú thích câu số 2 -3,  hai câu này rất là quan trọng trong chương này.  Nó nói lên được khái niệm chủ động, và bị động. Dành được thế chủ động là dành được chiến thắng.  Chủ động là vì mình biết cách lên một kế hoạch mà áp lực đối phương phải tuân theo quỹ đạo của mình đã lập ra.  Chủ động là mình biến đối phương chơi theo luận chơi của mình đề ra. Tóm tại chủ động là mình có thể điều kiển, và kiểm soát được đối phương theo ý mình muốn.
     
4)       Khiến địch không thể đến nơi nó muốn, ấy là do ta ngăn cản được nó.
5)       Do thế, địch đang nghỉ ngơi, ta phải làm cho nó mệt mỏi, địch đầy đủ lương thảo, ta phải làm cho chúng đói khát, địch đóng trại yên ổn, ta phải làm cho chúng di chuyển, đó là vì nơi ta tấn công, địch ắt phải đến ứng cứu.

     Chú thích câu 4 - 5 Tôn Tử bàn đến phương pháp tạo lên thế chủ động.  Nêu muốn địch khó mà chuyển đi lại thì mình ngăn cản địch.  Kết quả là sự di chuyển của địch sẽ bị chì hoãn.  Nếu muốn địch không được nghỉ ngơi, thì ta ra tay đánh phá, ép buộc địch phải ứng chiến.  Kết quả là địch phải khổ mệt.  Muốn khiến địch đói khác, thì ta ra tay cướp lương thức và vũ khí hay là ta phá huỷ.  Kết quả là địch sẽ bị thiếu thốn.  Nếu ta muốn địch không thể yên ổn đóng trại, thì ta ra tay tấn công, kiến địch phải ra tay ứng chiến và phòng thủ.  Làm được như vậy thì mình là người chủ động, và ngược lại địch là người bị động.

6)       Quân ta đi được nghìn dặm mà không mệt mỏi là do ta đến những nơi không bị địch ngăn trở, ta đánh mà chắc thắng là do ta tấn công vào nơi địch không cách gì phòng thủ, ta phòng thủ vững chắc do ta biết trước nơi sẽ bị địch tấn công.
     
     Chú thích: câu số 6,  muốn chắc thắng thì phải tấn công vào nơi địch không có phòng thủ kiên cố, và vưỡn chắc, vũ khí thì ít, quân lực thì ít so vời quân mình.  Muốn phòng thủ vững chắc thì ta phải suy đoán, dùng tình báo để biết quân dịch sẽ tấn công vào đâu.  Có vậy thì ta có thể rút lui an toàn. Nêu mà ta yếu thế hơn, hay là củng cố thêm lực lượng cho thật tốt để ứng chiến với quân địch.

7)       Người giỏi tiến công là người có thể làm cho địch không biết nơi mà phòng thủ, người giỏi phòng thủ là người có thể làm cho địch không biết phải tiến công vào nơi nào.

     Chú thích  câu số 7, Muốn làm cho địch không biết nơi nào mà phòng thủ thì ta phải biết trá hình, giả bộ, né tránh, bí mật  (che mắt quân địch) lừa quân địch, một khi quân địch vào kế rồi thì sẽ bị sơ hở, rồi mình mới ra tay tấn công.  Vị dụ, dùng kế dương đông kích tây.  Mình muốn đánh chiếm đồn B, nhưng mà quân lực ở đồn B rất là đông, vũ khí lại nhiều.  Đồn B được phòng thủ rất là vững chắc.  Do vậy, để làm đồn B bị yếu đi, thì phải làm bộ tấn công vào đồn A mà quân địch quyết định phải cố thủ và giữ cho bằng được,  làm cho quân dịch tưởng là ta muốn chiếm thật sự.  Cho nên bên địch đã kéo quân từ đồn B để ứng cứu cho dồn A.  Vì vậy dồn B sẽ bị yếu đi vì quân số không còn đông nữa.  Thừa cơ hội sơ hở, và yếu kém lực lượng ở bên dồn B, ta sẽ dùng một lực lượng mạnh hơn mà chiếm lấy đồn B.  Trong ví dụ này, quân ta ở trong thể chủ động.  Mình lên kế hoạch tấn công, mà quân địch phải ra tay ứng cứu, và tiếp viện. Trong khi đó quân địch ở trong thế bị động.  Bị động là tại vì địch phải ra tay ứng cứu đồn A, và  địch đã làm theo ý muốn mà mình đã tính toán trước rồi.  Hơn thế nữa là vì địch  đã vô tình mà làm theo kế hoạch mình đã bày ra trước đó.

     Người giỏi phòng thủ thì phải biết bí mất ém quân ở những nơi mà quân địch không biết ở đâu.  Địa thế ém quân phải là nhưng nơi hiểm trở, khó khăn đi lại, và không dễ bị tấn công.  Không dễ bị tấn công, tại vì địa thế có thể là núi cao, hay là rừng rậm,  hay là bùn lầy.   Cách khác nữa là đoàn quân phải luôn phiên di động trong bí mật, mai nay mai đó.  Không được cố địch ở một nơi nào trong một thời gian lâu.  Nếu làm như vậy thì quân dịch sẽ không biết được chỗ nào để tấn công.  Hơn thế nữa, cho dù biết đi nữa thì quân ta đã di chuyển đi nơi khác.


8)       Vi diệu, vi diệu đến mức vô hình. Thần kỳ, thần kỳ đến mức vô thanh. Vì thế mà ta có thể nắm vận mạng của quân địch trong tay.

     Chú thích:  câu số 8 nói đến sự vô hình, và vô thanh.  Vô hình tại vì quân ta bí mật tuyết đối không để cho quân địch biết trước ý đồ của mình.  Vô hình tại vì quân ta gian trá.  Vô hình tại vì mình biết nghi binh, Vô hình tại vì mình biết bí mật đã tạo lên tình thế chủ động về bên ta.  Ta có thể điều khiển  quân địch theo cách tính toán của mình đã đàn ra trước đó.

9)   Ta tiến công mà địch không cản nỗi vì ta như tiến vào chỗ không người, ta thoái lui mà địch không đuổi theo vì ta hành động nhanh lẹ, địch không đuổi kịp.

     Chú thích :  không người có hàm ý là ít quân số, hay là khu vực yếu điểm mà quân địch đang đóng quân.  Nơi yếu điểm có thể là quân số, vũ khí.  Hay là quân đội ta có thể khác phục quân đội đối phương.  Vị dụ, quân đội địch giởi về kỵ binh, thì ta trang bị quân ta vũ khí dài để đối phó với kỵ binh.  Ta tấn công vào chỗ địch không người ( không phòng bị, không để ý) thì mình ra tay tấn công một cách bất ngờ.  Đánh như vậy thì lúc nào mình cũng giữ được tư thế chủ động, làm cho địch không kịp ứng phó. Kết quả là mình sẽ chiếm được nhiều thắng lợi. 


10) Bởi thế, ta muốn đánh thì dù địch có lũy cao hào sâu cũng phải ứng chiến với ta vì ta đánh vào nơi địch buộc phải ứng cứu, ta không muốn đánh thì vạch đất mà phòng thủ, địch cũng không thể đến đánh ta vì ta làm cho chúng phải đổi hướng tiến công.
     
      Chú thích câu số 10,  muốn làm cho địch không thể tấn công ta được thì ta phài giả vờ làm quân ra rất là hùng hậu,  phỏng thủ kiên cố.  Hay là ta giả vờ làm cho quân địch hiểu lầm là ta có quân mại phục, chúng nó tưởng thật mà không giám tấn công.  Phải biết  nghi binh.  Đó là cách thức đánh lừa đối phương.  Thổi phồng thân thế, đưa tin đòn ra.  Một cách khác nữa là ta có thể làm những gì khác thường, kỳ quạt để làm cho địch nghi ngờ, ngờ vực mà không đám ra ta tấn công trong một thời gian nào đó.  Quân dịch sẽ nghi ngờ, và tiến hành điều tra sự việc cho rõ ràng tình hình rồi mới tiếp túc tấn công.  Trong lúc đó bên ta rút lúi quân một cách an toàn, hay là ta tăng viện lên phòng bị.  Nói cách khác là ta biết cách kéo thêm thời gian, để tìm cách soay sở.

11) Ta khiến địch để lộ thực lực mà ta thì vô hình thì ta có thể tập trung binh lực, còn địch thì phân tán lực lượng.
12) Ta tập trung binh lực ở một nơi mà địch phân tán lực lượng ở mười chốn, tức là ta dùng mười đánh một (he he … địch không chột cũng … chết vì bị hội đồng), như thế quân ta đông quân địch ít, lợi thế hẳn cho ta.
13) Dùng nhiều đánh ít, tương quan lực lượng ta với địch rõ ràng là mình thắng.

      Chú thích câu số 11 - 13,  Tôn Tử dùng phương pháp đánh thử để biết được thực lực đôi phương ra sao, rồi phân tích và so sánh tình hai bên, sau đó sẽ tìm cách thức phân tán lực lượng đôi phương,  Một khi quân địch đã bị phân tán lực lượng, thì ta sẽ tập trung lực lượng mà tấn công vào từng yếu điểm một. Tại vì quân địch bị phân tán, nên sẽ bị giảm quân số ở nhiều nơi, nên ta có thể dùng nhiều quân đánh ít quân là nghĩa là vậy.  Ví dụ, quân địch có 10 vạn quân (1 vạn = 10 ngàn).  Trong khi đó quân ta chỉ có 5 vạn quân.  Bên địch bị phân tán quân ra phòng thủ ở ba thành phố Saigon 3 vạn, Huế 3 vạn, Hải Phòng 4 vạn.  Bên ta có thể tập trung 5 vạn quân tấn công Saigon.  Làm như vậy thì quân ta có 5 vạn thì hơn quân địch đóng ở Saigon có 3 vạn thôi.  Nếu mà quân địch tặng viện cho Saigon, từ Huế thêm 1 vạn, thì ta sẽ tấn công Huế.

14) Nơi ta muốn tiến công, địch chẳng thể nào biết, không thể biết ắt địch phải bố trí phòng thủ nhiều nơi, đã phòng bị nhiều nơi thì quân số bị phân bố ắt nơi ta cần tiến công sẽ có ít quân địch.

     Chú thích câu số 14,  ta phải bí mật trong khi tấn công.  Không được bại lộ kế hoạch của mình.  Nếu mà địch không biết ta tấn công ở đâu, lúc nào bên địch cũng phải ra quân khắp ở khắp mọi nơi để mà phòng thủ, mà làm như vậy thì quân số xẽ bị đàn mỏng.

15) Địch giữ được “mặt tiền” thì mặt sau mỏng yếu, giữ được bên trái thì bên phải yếu mỏng.
16) Binh lực mỏng là vì phòng bị khắp nơi, binh lực dồi dào là nhờ buộc địch phải phòng bị khắp chỗ.
17) Vì thế, biết trước chiến địa và thời gian giao tranh thì dù xa ngàn dặm cũng có thể giao phong với địch.
18) Không biết sẽ đánh ở đâu và vào lúc nào thì cánh trái không thể tiếp ứng cánh phải, cảnh phải không thể ứng tiếp cánh trái, mặt tiền không thể ứng cứu với mặt hậu, mặt hậu không thể ứng cứu mặt tiền, huống hồ xa ngoài ngàn dặm, gần trong vài dặm thì thế nào?
19) Theo ý ta, vượt người về số quân đâu có ích chi cho ta trong việc thắng bại, thắng lợi có thể do ta tạo thành.
      
      Chú thích câu số 19, quân số đông không quan trọng bằng biết cách thức tổ chức, biết cách dùng mưu dùng trí mà tạo lên lợi thế mà phải do ta nghiên cứu mà tạo thành thế lợi.

20)  Quân địch tuy đông, có thể làm cho chúng không thể đấu với ta được.

      Chú thích câu số 20, quân địch tuy đông, nhưng mà ta biết cách làm cho quân địch phải bị phân tán ra nhiều nơi nhiều trỗ, thì đâu có thể đấu với ta, trong lúc đó ta tập trung lực lượng, tấn công một điểm nào đó thì sao mà chống nổi.

21) Phải bày mưu lập kế, phân tích kế hoạch tác chiến của quân địch, khiêu khích địch để nắm tình hình và phương cách hành quân của địch, trinh sát xem chỗ nào có lợi, chỗ nào bất lợi, đánh thử xem binh lực của địch mạnh yếu thực hư thế nào.

      Chú thích câu số 21,  Tôn Tử chủ chương đánh thử để biết trở mạnh, trở yếu.  Phải biết phân thích tình hình kế hoạch tác chiến của quân địch trước khi mà tham chiến.  Cho dù định dụ ta đi nhưng, ta cũng không làm theo.  Khiêu khích địch để đánh thử,  trong khi đó ta sẽ theo dõi cách thức hành sử của địch ra sao, sao rồi tìm ra phương pháp để ứng chiến cho các trận sau.

22) Ta ngụy trang thật khéo khiến địch không tìm ra tung tích thì dù gián điệp có vào sâu trong đội hình cũng không biết rõ được quân ta, kẻ địch khôn ngoan mấy cũng chẳng biết cách đối phó với quân ta.
23) Căn cứ vào sự thay đổi tình hình của địch mà vận dụng linh hoạt chiến thuật, dù có bày sẵn thắng lợi trước mắt chúng cũng không nhận ra sự ảo diệu của nó.
24) Người ngoài chỉ biết ta dùng phương kế thắng địch chứ không biết ta đã vận dụng phương kế đó thế nào.

     Chú thích: câu số 24, ví dụ mình muốn bắt trước người khác nấu ăn cho thật ngon, thì mình có thể nhìn người ta làm ra sao, mà bắt trước, nhưng mà mình không hiểu được cách thức tại sao mà người ta làm như vậy.  Trong chiến tranh cũng vậy, quân địch có thể theo dõi mình đang làm gì, nhưng mà sẽ không hiểu nổi tại sao mình làm như thế vậy.  Cách thức vận dụng phương pháp kế hoạch đó như thế nào.

25) Vì vậy, chiến thiến lần sau không lặp lại phương thức đã dùng trong lần trước mà phải thích ứng với tình hình mới, biến hóa vô cùng vô hình.

      Chú thích câu số 25:  Chữ vô có nghĩa là không.  Vô cùng có nghĩa là không bao giờ đến thận cùng.  Nói cách khác là rất nhiều, không bờ không bến, bao la tận cùng.  Vô hình là không hình dáng, không thấy được.  Không hình dánh, không thấy được tại vì biết cách che dấu đội hình, tin tức bí mật quân sự, hay là biết cách trá hình, để không bị lộ ra ý đồ thật sự của việc điều binh khiển tướng. 
26) Cách dùng binh cũng như dòng chảy của nước vậy, quy tắc vận hành của nước là từ chỗ cao đổ xuống thấp.

      Chú thích câu số 26, nguyên tắc chung là đán từ trên cao xuống.  Trên cao sẽ có lợi thế hơn so với ở chỗ thập.

27) Thắng lợi trên chiến trường là do ta biết tránh chỗ cứng, chỗ thực của quân địch mà đánh vào chỗ mềm, chỗ hư của địch.
     
     Chú thích: câu số 27,  trong chiến tranh, không phải lúc nào cũn g là tiến công hay phòng thủ, mà có lúc phải biết tránh né.  Phải biết uyển chuyển.  Không nên ra tay đánh vào chổ mạnh của đối phương, mà ra tay đánh vào chỗ yếu điểm.  Tránh trỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu đó là nguyên tắc căn bản nhất.

28) Nước tùy địa hình cao thấp mà định được hướng chảy, tác chiến căn cứ vào tình hình của địch mà quyết định cách đánh.
      
      Chú thích câu số 28:  phải biết biến hóa, ứng biết, ứng dụng tuy theo tình thế.

29) Dụng binh tác chiến không có hình thế cố định, không có phương thức nhất định.

      Chú thích câu số 29,  Tôn Tử nhận mạnh một điểm tiết yếu là phải biết biến hóa.  Không có một công thức nào là toàn thiện và áp dụng cho tất cả tinh huống trên đời này cả.

30) Dựa vào biến đổi của địch mà chiến thắng thì gọi là dụng binh như thần.
31) Ngũ hành tương sinh tương khắc, không có hành nào luôn thắng, bốn mùa nối tiếp nhau thay đổi, không có mùa nào cố định mãi, bóng mặt trời lúc dài lúc ngắn, vành trăng có khi tròn khi khuyết.

      Chí thích câu số 31.  Tôn Tử nhận mạnh vào nguyên lý tương sinh, tương khắc.  Quân đội nào dù có mạnh đến đâu cũng có một điểm yếu, cũng có lúc yếu đi trong một thời gian nhất định nào đó.  Dù cho quân đội mạnh đến đâu nữa thì tinh thần chiến đấu cũng có lúc lên xuống theo thời gian.  Dựa vào nguyên lý tương sinh, tương khắc, Tôn Tử xẽ khai thác những điểm yếu của đối phương chiết để mà thủ thắng lợi.  Con người dù cho có cẩn thận đến đâu nữa thì cũng có những lúc sơ hở.  Con người dù cho sức khỏe mạnh đến đâu nữa thì cũng có lúc bệnh hoạn.  Chu kỳ sức khỏe con người, có lúc mạnh,  có lúc yếu, lúc bệnh, lúc hồi phục, lúc trẻ trung, lúc già yếu.  Trong quân đội cũng vậy, chu kỳ phát chuyển quân đôi cũng vậy.  Thời gian trôi đi, con người cũng thay đổi.  Người chỉ huy cũng thay đổi suy nghĩ,  tình thế cũng thay đổi, tinh thần cũng thay đổi, và vân vân.