Cửu Biến : Cửu là số 9, biến là biến hóa, thay đổi, ứng dụng, thích nghi, thích ứng. Cửu biến có hàm ý nói lên sự muôn ngàn cách ứng biến, cách thích nghi, cách biến hóa, làm sao cho tốt nhất cho công việc.
1) Tôn Tử viết : Phàm
dụng binh chi pháp, chủ tướng nhận lệnh của vua, tập hợp quân đội, quân nhu
(giáo, khí, lương, tiền, …), khi xuất chinh ở “phỉ địa” thì không
dựng trại, ở “cù địa” phải kết giao với nước láng
giềng, ở “tuyệt địa” không được nấn ná, ở “vi địa” thì phải tính
kế, ở “tử địa” phải liều chết quyết chiến.
Chú thích câu 1: Ý chính của câu này nêu lên những ví dụ về cách sử lý trong những tình huống địa lý khác biệt. Nếu mà gặp phải phỉ địa, cù địa, tuyệt địa, vị địa, tử địa thì ứng sử ra sao, giải quyết vẫn đề ra sao. Mõi một địa lý có một đặt thù riêng, thì người tướng giỏi phải nắm vữa lý lẽ đó mà hành sử sao cho thích nghi, phù hợp với tình hình hiện tại.
Phỉ (kếm cỏi) địa là khu vực có đất đá gò gề, lổm chổm, không có bằng phẳng, đất xấu và thì Tôn Tử sẽ không cho đóng dinh trại tại vì rất là bất tiện cho sự di chuyển và ứng phó với địch. Có lẽ là quân sĩ của Tôn Tử không có được chuẩn bị và huấn luyện giao chiến cho địa thế này.
Phỉ địa gò gề, khó khăn di chuyển cho người và ngựa |
Cù (rộng, lớn) địa là đất có đường lớn thông suốt, đường dài và rộng, phải giao thiếp vời đồng minh để có được tiếp tế lương thực hay là được ẩn chú.
![]() | |
Cù địa rộng lớn, thông suốt, xa sôi ngàn dặm, không có dân cư, không có núi, sông cản chở sự đi chuyển của bộ binh |
![]() |
Cù địa đồng bằng bao la, bát ngát, thông suốt |
Tuyệt địa là khu vực bị quân địch cánh ly, bị cô lập, bị ngăn cánh, với đường tiếp tế lương thực, tiếp tế quân lực. Hay là khu vực bị ảnh hưởng của địa thế thiên nhiên khô cằng, không có nước non, không có cây cỏ sống được và không có thể nuôi quân được. Núi cao ngăn chở sự di chuyển, làm cho tốc độ chập lại.
![]() |
Tuyệt địa kho cằn, không có nước, không có dân cư, không có thể lấy nước nuôi quân sĩ |
Vị địa là khu vực nhỏ là hẹp, dể bị bao vây, hay là đất bị vây. Ví dụ mình hành quân ở trong hẻm núi thì dễ bị chặn hai đầu, bao vây bốn từ trên cao bắn cúng, lăn gố đá xuống và đốt lửa.
![]() |
Vi địa đường đi nhỏ hẹp hai bên là vắt núi, dễ bị mai phục |
![]() |
Vi địa là thung lũng có con đường mòn ở giữa hai cái núi |
Tử địa là địa thế trong đường cùng do sông, núi, hay là vật cẳn bao quanh bốn phương tám hướng. Nói cánh khác là bị mắc kẹt không còn lối thoát.
![]() | |||
Tử địa đây là hình ảnh quân đội Mỹ đổ bộ ở bờ biển Normady, một khi lên bờ là sẻ không có đường rút lúi, phải sống chết đánh cho đến cùng |
![]() |
Tử địa, quân đội Mỹ chuẩn bị cập bờ biển Normandy và giao tranh với quân Đức Quốc Xã |
2) Có những đường không nên đi, có những loại địch
không nên đánh, có những thành không nên công, có những vùng không nên giành,
có những lệnh vua không nên nghe.
Chú thích câu số 2: có những con đường không nên đi tại vì dễ bị quân địch mai phục hay là không thuân tiện. có những loại địch không nên đánh tại vì có đánh thắng đi nữa đi thì cũng không có ít lợi gì cho chiến lược. Có những thành không nên lấy tại vì có lấy được nhưng mà sẽ không giữ được. Theo kinh nghiệp người xưa, nếu muốn công thành thì lực lượng phải mạnh hơn ít nhất gấp 3 lần. Chiếm xong thành sẽ bị hao tổn binh lực rất nhiều, cho nên sẽ khó mà giữ thành được lâu dài. Có thể lực lượng đối phương thừa cơ đành vào thì rất là dễ mất hết tất cả. Có những vùng không lên lấy, lấy xong rồi thì chưa chắc giữ được lâu dài. Và nêú mình không lấy thì cũng không ảnh hưởng gì đến bối cục toàn diện. Bởi vậy lấy làm gì cho tốn công tốn sức. Có những lệnh vua không nên nghe, tại vì không phải vua lúc nào cũng có những quyết định là đúng hết trên phương diện chiến thuật hay là chiến lược trong mọi hoàn cảnh sát với thực tế tình hình chiến trường.
3) Tướng lĩnh tinh thông những ứng biến trên mới là người biết cách dùng binh.
Chú thích câu số 2: có những con đường không nên đi tại vì dễ bị quân địch mai phục hay là không thuân tiện. có những loại địch không nên đánh tại vì có đánh thắng đi nữa đi thì cũng không có ít lợi gì cho chiến lược. Có những thành không nên lấy tại vì có lấy được nhưng mà sẽ không giữ được. Theo kinh nghiệp người xưa, nếu muốn công thành thì lực lượng phải mạnh hơn ít nhất gấp 3 lần. Chiếm xong thành sẽ bị hao tổn binh lực rất nhiều, cho nên sẽ khó mà giữ thành được lâu dài. Có thể lực lượng đối phương thừa cơ đành vào thì rất là dễ mất hết tất cả. Có những vùng không lên lấy, lấy xong rồi thì chưa chắc giữ được lâu dài. Và nêú mình không lấy thì cũng không ảnh hưởng gì đến bối cục toàn diện. Bởi vậy lấy làm gì cho tốn công tốn sức. Có những lệnh vua không nên nghe, tại vì không phải vua lúc nào cũng có những quyết định là đúng hết trên phương diện chiến thuật hay là chiến lược trong mọi hoàn cảnh sát với thực tế tình hình chiến trường.
3) Tướng lĩnh tinh thông những ứng biến trên mới là người biết cách dùng binh.
Chú thích câu 1-3 : Tôn Tử muốn nói lên đặt điểm quan trọng nhất là phải hiểu biết sâu rộng về địa thế, tình hình chiến tranh. Phải biết phân tích, suy luận sâu sắc, phải thông hiểu rõ ràng sự việc. Và cuối cùng là biết ứng phó với mọi hoàn cảnh một cách biến hóa, kheo léo, thích nghi vào từng trường hợp.
4) Không tinh thông nhưng ứng biến ấy, dù có nắm
được địa hình cũng không thể giành được địa lợi.
Chú thích câu số 4: Tướng quân không có kiến thức, hiểu biết sự việc, địa hình, không có khinh nghiệm trong chiến trường, nhưng mà biết ứng biến, dù có lấy được địa hình tốt cũng không phát huy điểm lợi thế. Tại vì không có dủ khiến thức.
Chú thích câu số 4: Tướng quân không có kiến thức, hiểu biết sự việc, địa hình, không có khinh nghiệm trong chiến trường, nhưng mà biết ứng biến, dù có lấy được địa hình tốt cũng không phát huy điểm lợi thế. Tại vì không có dủ khiến thức.
5) Chỉ huy quân đội mà không biết dùng những ứng
biến ấy thì dù biết năm điều lợi cũng không thể phát huy được toàn bộ tác dụng
của quân đội.
Chú thích câu số 5: ngược lại với câu số 4, người tướng quân, có kiến thức, có hiểu biết mà không có biêt ứng biến, áp dụng thì cũng không phát huy được toàn bộ địa hình thuận lợi.
Chú thích câu số 5: ngược lại với câu số 4, người tướng quân, có kiến thức, có hiểu biết mà không có biêt ứng biến, áp dụng thì cũng không phát huy được toàn bộ địa hình thuận lợi.
6) Tướng lĩnh thông minh suy tính tất phải cân nhắc
hai phương diện lợi hại.
Chú thích câu số 6, Tôn Tử đê ra phương thức so sánh mọi vấn đề trên hai phương diện lợi và hại. Cùng trong một tình thế, phải biết ra cái lợi là gì, cái hại là gì, rồi mình cân nhắc cho kỹ lưỡng trước khi quyết định thi hành. Quan trọng nhất là phải ứng biến, ứng sử làm sao cho phù hợp tình thế.
Chú thích câu số 6, Tôn Tử đê ra phương thức so sánh mọi vấn đề trên hai phương diện lợi và hại. Cùng trong một tình thế, phải biết ra cái lợi là gì, cái hại là gì, rồi mình cân nhắc cho kỹ lưỡng trước khi quyết định thi hành. Quan trọng nhất là phải ứng biến, ứng sử làm sao cho phù hợp tình thế.
7) Khi gặp tình hình bất lợi, phải tìm cho được
điều lợi mới thành được đại sự.
Chú thích câu số 7: khi gặp phải vấn đề bất lợi khó khăn, phải mau dùng trí tìm ra phương thức hóa giải, thì mới mong thành đại sự.
Chú thích câu số 7: khi gặp phải vấn đề bất lợi khó khăn, phải mau dùng trí tìm ra phương thức hóa giải, thì mới mong thành đại sự.
8) Gặp tình hình thuận lợi, phải cố thấy rõ những
yếu tố bất lợi mới kịp thời giải trừ được tai biến.
Chú thích câu số 8: khi gắp tình thế thuận tiện, phải biết tận dụng khai thác triệt để, và phải tìm ra điểm yếu trong tình thế đó mà phòng thủ.
Chú thích câu số 8: khi gắp tình thế thuận tiện, phải biết tận dụng khai thác triệt để, và phải tìm ra điểm yếu trong tình thế đó mà phòng thủ.
9) Muốn khuất phục chư hầu, phải đánh vào chỗ nguy
hại của họ ; muốn điều khiển chư hầu, phải buộc họ làm những việc họ không thể
không làm ; muốn ép họ vào thế bị động, phải dùng lợi mà dẫn dụ họ.
Chú thích câu số 9, muốn kìm chế địch thì phải đánh vào yếu điểm ở bên địch. Ví dụ, Bàng Nguyên tướng quân nước Ngụy đem hết quân đi xâm chiếm nước Triệu. Tôn Tấn nước Tề, muốn cứu nước Triệu bằng cách tấn công kinh dô nước Ngụy. Vì Bàng Nguyên đã mang hết quân đi xâm chiếm nước Triệu, nên quân số ở trong kinh đô nước Ngụy rất là yếu. Cho nên Bàng Nguyên đằng lòng tạm ngưng cuộc xâm lược và đêm quân về ứng cứu kinh đô nước Ngụy.
Trong chiến tranh, muốn ép đôi phương vào thế bị động, thì phải dùng lợi mà đẫn dụ. Lợi ở đây có nghĩa là mình giã vờ bị sơ hở để địch thấy vậy mà đánh chiếm lấy một nơi nào đó. Ví dụ, mình muốn dụ đi đến một nơi nào đó, thì mình ra lênh cho một số ít quân lính đánh ở đây. Quân địch sẻ phải ra tay điều một số quân để mà tiêu diệt. Dụ được định ra tay, là ta đã ép họ vào thế bị động. Bị động là phải làm theo ý muốn minh sấp đặt trước. Chủ động là mình ra tay tạo lên tình thế, để quân địch phải ra tay phản ửng lại tình hình do mình đã lập ra trước đó.
Chú thích câu số 9, muốn kìm chế địch thì phải đánh vào yếu điểm ở bên địch. Ví dụ, Bàng Nguyên tướng quân nước Ngụy đem hết quân đi xâm chiếm nước Triệu. Tôn Tấn nước Tề, muốn cứu nước Triệu bằng cách tấn công kinh dô nước Ngụy. Vì Bàng Nguyên đã mang hết quân đi xâm chiếm nước Triệu, nên quân số ở trong kinh đô nước Ngụy rất là yếu. Cho nên Bàng Nguyên đằng lòng tạm ngưng cuộc xâm lược và đêm quân về ứng cứu kinh đô nước Ngụy.
Trong chiến tranh, muốn ép đôi phương vào thế bị động, thì phải dùng lợi mà đẫn dụ. Lợi ở đây có nghĩa là mình giã vờ bị sơ hở để địch thấy vậy mà đánh chiếm lấy một nơi nào đó. Ví dụ, mình muốn dụ đi đến một nơi nào đó, thì mình ra lênh cho một số ít quân lính đánh ở đây. Quân địch sẻ phải ra tay điều một số quân để mà tiêu diệt. Dụ được định ra tay, là ta đã ép họ vào thế bị động. Bị động là phải làm theo ý muốn minh sấp đặt trước. Chủ động là mình ra tay tạo lên tình thế, để quân địch phải ra tay phản ửng lại tình hình do mình đã lập ra trước đó.
10) Nguyên tắc dùng binh là : không chờ địch đến
đánh ta, mà phải tập trung vào việc sắp sẵn kế sách đối phó ; không đợi địch
tấn công ta, mà phải trông vào thành lũy của ta vững chắc, địch không thể hạ
được.
Chú thích câu số 10, Tôn Tử bàn đến sự chuẩn bị kỹ càng là rất là quan trong. Trong tình huống nào đi nữa tấn công hay phòng thủ, phải chuẩn bị cho thật chu đáo, và kỹ lưỡng, và tật tốt. Điểm cốt yếu là phải ở trong thế chủ động.
Chú thích câu số 10, Tôn Tử bàn đến sự chuẩn bị kỹ càng là rất là quan trong. Trong tình huống nào đi nữa tấn công hay phòng thủ, phải chuẩn bị cho thật chu đáo, và kỹ lưỡng, và tật tốt. Điểm cốt yếu là phải ở trong thế chủ động.
11) Làm tướng có 5 điểm nguy hiểm : liều chết khinh
suất có thể bị giết, tham sống sợ chết có thể bị bắt, nóng giận hồ đồ có thể
mắc mưu, liêm khiết tự trọng không chịu được nhục nhã, thương dân có thể lo
buồn bất an.
12) Phạm 5 sai lầm đó thì tai họa khó lường cho việc
dùng binh.
13) Quân bị
diệt, tướng bị giết đều do 5 điểm nguy hiểm ấy mà ra, không thể không suy xét
kỹ.
Chú thích câu số 11 - 13, năm điểm nguy hiểm Tôn Tử đã đề ra là:
a) Liều chết khinh suất quân, đánh liều mà không có suy nghĩ tính toán trước khi mà giao tranh. Ỷ vào quân đội lớn mạnh và không đề phòng quân địch, không cẩn thật tính toán thì củng có thể bị tiêu diệt.
b) Tham sống sợ chết. Trên phương diện tâm lý, chưa đánh mà đã sợ chết thì làm sao có thể quyết chiến được, chưa đánh mà đã lo sợ thì dể bị bắt. Nhuốt nhát, quay lưng bỏ chạy sẽ để lộ ra yếu điểm của con người. Một khi quân lính quay lưng, thì quân địch tha hồ tiến lên chém diệt một cách tư dọ. Kinh nghiệm ông bà mình nói rắng, sông pha tiến công thì dễ, rút quân thì rất là khó. Rút luôi trong lúc giao tranh rất là khó giữ được mạng sống. c) Nóng giận, trong lúc nóng giận người tướng quyết định không đước sáng xuất, và suy nghĩ không được kỹ lượng. Trong lúc nóng giận, con người sẽ hành động theo cảm súc bản năng của con người. Mà vì vậy sẽ rất đễ bị mắc mưu, mắc kế của địch.
d) Liêm khiết, rất là tự ái, không chịu đựng được tiếng sỉ nhục, tiếng đồn, tiếng nói sấu của bên địch tuyên truyền. Người như vầy thì sẽ hàng động nóng giận, và rất là đễ bị mắc mưu.
e) Thương dân là lợi dùng tình cảm của con mình, mà khai thác chiết để để ép mình vào thể bị động.
Chú thích câu số 11 - 13, năm điểm nguy hiểm Tôn Tử đã đề ra là:
a) Liều chết khinh suất quân, đánh liều mà không có suy nghĩ tính toán trước khi mà giao tranh. Ỷ vào quân đội lớn mạnh và không đề phòng quân địch, không cẩn thật tính toán thì củng có thể bị tiêu diệt.
b) Tham sống sợ chết. Trên phương diện tâm lý, chưa đánh mà đã sợ chết thì làm sao có thể quyết chiến được, chưa đánh mà đã lo sợ thì dể bị bắt. Nhuốt nhát, quay lưng bỏ chạy sẽ để lộ ra yếu điểm của con người. Một khi quân lính quay lưng, thì quân địch tha hồ tiến lên chém diệt một cách tư dọ. Kinh nghiệm ông bà mình nói rắng, sông pha tiến công thì dễ, rút quân thì rất là khó. Rút luôi trong lúc giao tranh rất là khó giữ được mạng sống. c) Nóng giận, trong lúc nóng giận người tướng quyết định không đước sáng xuất, và suy nghĩ không được kỹ lượng. Trong lúc nóng giận, con người sẽ hành động theo cảm súc bản năng của con người. Mà vì vậy sẽ rất đễ bị mắc mưu, mắc kế của địch.
d) Liêm khiết, rất là tự ái, không chịu đựng được tiếng sỉ nhục, tiếng đồn, tiếng nói sấu của bên địch tuyên truyền. Người như vầy thì sẽ hàng động nóng giận, và rất là đễ bị mắc mưu.
e) Thương dân là lợi dùng tình cảm của con mình, mà khai thác chiết để để ép mình vào thể bị động.
No comments:
Post a Comment