Tuesday, August 21, 2012

Thiên Thứ Sáu - Hư Thực

Đinh Nghĩa Hư:
    là yếu, là trá hình, không có thật, là ít ỏi, là sức lực yếu kém, là vũ khi yếu kém, là tổ chức yếu kém.  Là tất cả mợi sự có tính chất yếu kém so với sự thông thường hay là tiêu chuẩn được đặt ra.

Thực:  là mạnh, là sung sức, là vữa chắc, là đầy đủ, là tốt. Là tất cả mội sự có tích chất mạnh và tốt so với sự thông thường hay là tiêu chuẩn được đặt ra.

 1)       Tôn Tử viết : Phàm đến chiến địa trước đợi địch là chiếm được thế chủ động an nhàn, đến chiến địa sau ứng chiến với địch là lâm vào thế mệt mỏi.  
2)       Vì thế, người chỉ huy tác chiến giỏi là người có thể điều khiển quân địch chứ không thể theo sự điều khiển của quân địch.
3)       Khiến quân địch đến nơi ta làm chủ trước là kết quả của việc dùng lợi nhỏ nhữ địch.
      Chú thích câu số 2 -3,  hai câu này rất là quan trọng trong chương này.  Nó nói lên được khái niệm chủ động, và bị động. Dành được thế chủ động là dành được chiến thắng.  Chủ động là vì mình biết cách lên một kế hoạch mà áp lực đối phương phải tuân theo quỹ đạo của mình đã lập ra.  Chủ động là mình biến đối phương chơi theo luận chơi của mình đề ra. Tóm tại chủ động là mình có thể điều kiển, và kiểm soát được đối phương theo ý mình muốn.
     
4)       Khiến địch không thể đến nơi nó muốn, ấy là do ta ngăn cản được nó.
5)       Do thế, địch đang nghỉ ngơi, ta phải làm cho nó mệt mỏi, địch đầy đủ lương thảo, ta phải làm cho chúng đói khát, địch đóng trại yên ổn, ta phải làm cho chúng di chuyển, đó là vì nơi ta tấn công, địch ắt phải đến ứng cứu.

     Chú thích câu 4 - 5 Tôn Tử bàn đến phương pháp tạo lên thế chủ động.  Nêu muốn địch khó mà chuyển đi lại thì mình ngăn cản địch.  Kết quả là sự di chuyển của địch sẽ bị chì hoãn.  Nếu muốn địch không được nghỉ ngơi, thì ta ra tay đánh phá, ép buộc địch phải ứng chiến.  Kết quả là địch phải khổ mệt.  Muốn khiến địch đói khác, thì ta ra tay cướp lương thức và vũ khí hay là ta phá huỷ.  Kết quả là địch sẽ bị thiếu thốn.  Nếu ta muốn địch không thể yên ổn đóng trại, thì ta ra tay tấn công, kiến địch phải ra tay ứng chiến và phòng thủ.  Làm được như vậy thì mình là người chủ động, và ngược lại địch là người bị động.

6)       Quân ta đi được nghìn dặm mà không mệt mỏi là do ta đến những nơi không bị địch ngăn trở, ta đánh mà chắc thắng là do ta tấn công vào nơi địch không cách gì phòng thủ, ta phòng thủ vững chắc do ta biết trước nơi sẽ bị địch tấn công.
     
     Chú thích: câu số 6,  muốn chắc thắng thì phải tấn công vào nơi địch không có phòng thủ kiên cố, và vưỡn chắc, vũ khí thì ít, quân lực thì ít so vời quân mình.  Muốn phòng thủ vững chắc thì ta phải suy đoán, dùng tình báo để biết quân dịch sẽ tấn công vào đâu.  Có vậy thì ta có thể rút lui an toàn. Nêu mà ta yếu thế hơn, hay là củng cố thêm lực lượng cho thật tốt để ứng chiến với quân địch.

7)       Người giỏi tiến công là người có thể làm cho địch không biết nơi mà phòng thủ, người giỏi phòng thủ là người có thể làm cho địch không biết phải tiến công vào nơi nào.

     Chú thích  câu số 7, Muốn làm cho địch không biết nơi nào mà phòng thủ thì ta phải biết trá hình, giả bộ, né tránh, bí mật  (che mắt quân địch) lừa quân địch, một khi quân địch vào kế rồi thì sẽ bị sơ hở, rồi mình mới ra tay tấn công.  Vị dụ, dùng kế dương đông kích tây.  Mình muốn đánh chiếm đồn B, nhưng mà quân lực ở đồn B rất là đông, vũ khí lại nhiều.  Đồn B được phòng thủ rất là vững chắc.  Do vậy, để làm đồn B bị yếu đi, thì phải làm bộ tấn công vào đồn A mà quân địch quyết định phải cố thủ và giữ cho bằng được,  làm cho quân dịch tưởng là ta muốn chiếm thật sự.  Cho nên bên địch đã kéo quân từ đồn B để ứng cứu cho dồn A.  Vì vậy dồn B sẽ bị yếu đi vì quân số không còn đông nữa.  Thừa cơ hội sơ hở, và yếu kém lực lượng ở bên dồn B, ta sẽ dùng một lực lượng mạnh hơn mà chiếm lấy đồn B.  Trong ví dụ này, quân ta ở trong thể chủ động.  Mình lên kế hoạch tấn công, mà quân địch phải ra tay ứng cứu, và tiếp viện. Trong khi đó quân địch ở trong thế bị động.  Bị động là tại vì địch phải ra tay ứng cứu đồn A, và  địch đã làm theo ý muốn mà mình đã tính toán trước rồi.  Hơn thế nữa là vì địch  đã vô tình mà làm theo kế hoạch mình đã bày ra trước đó.

     Người giỏi phòng thủ thì phải biết bí mất ém quân ở những nơi mà quân địch không biết ở đâu.  Địa thế ém quân phải là nhưng nơi hiểm trở, khó khăn đi lại, và không dễ bị tấn công.  Không dễ bị tấn công, tại vì địa thế có thể là núi cao, hay là rừng rậm,  hay là bùn lầy.   Cách khác nữa là đoàn quân phải luôn phiên di động trong bí mật, mai nay mai đó.  Không được cố địch ở một nơi nào trong một thời gian lâu.  Nếu làm như vậy thì quân dịch sẽ không biết được chỗ nào để tấn công.  Hơn thế nữa, cho dù biết đi nữa thì quân ta đã di chuyển đi nơi khác.


8)       Vi diệu, vi diệu đến mức vô hình. Thần kỳ, thần kỳ đến mức vô thanh. Vì thế mà ta có thể nắm vận mạng của quân địch trong tay.

     Chú thích:  câu số 8 nói đến sự vô hình, và vô thanh.  Vô hình tại vì quân ta bí mật tuyết đối không để cho quân địch biết trước ý đồ của mình.  Vô hình tại vì quân ta gian trá.  Vô hình tại vì mình biết nghi binh, Vô hình tại vì mình biết bí mật đã tạo lên tình thế chủ động về bên ta.  Ta có thể điều khiển  quân địch theo cách tính toán của mình đã đàn ra trước đó.

9)   Ta tiến công mà địch không cản nỗi vì ta như tiến vào chỗ không người, ta thoái lui mà địch không đuổi theo vì ta hành động nhanh lẹ, địch không đuổi kịp.

     Chú thích :  không người có hàm ý là ít quân số, hay là khu vực yếu điểm mà quân địch đang đóng quân.  Nơi yếu điểm có thể là quân số, vũ khí.  Hay là quân đội ta có thể khác phục quân đội đối phương.  Vị dụ, quân đội địch giởi về kỵ binh, thì ta trang bị quân ta vũ khí dài để đối phó với kỵ binh.  Ta tấn công vào chỗ địch không người ( không phòng bị, không để ý) thì mình ra tay tấn công một cách bất ngờ.  Đánh như vậy thì lúc nào mình cũng giữ được tư thế chủ động, làm cho địch không kịp ứng phó. Kết quả là mình sẽ chiếm được nhiều thắng lợi. 


10) Bởi thế, ta muốn đánh thì dù địch có lũy cao hào sâu cũng phải ứng chiến với ta vì ta đánh vào nơi địch buộc phải ứng cứu, ta không muốn đánh thì vạch đất mà phòng thủ, địch cũng không thể đến đánh ta vì ta làm cho chúng phải đổi hướng tiến công.
     
      Chú thích câu số 10,  muốn làm cho địch không thể tấn công ta được thì ta phài giả vờ làm quân ra rất là hùng hậu,  phỏng thủ kiên cố.  Hay là ta giả vờ làm cho quân địch hiểu lầm là ta có quân mại phục, chúng nó tưởng thật mà không giám tấn công.  Phải biết  nghi binh.  Đó là cách thức đánh lừa đối phương.  Thổi phồng thân thế, đưa tin đòn ra.  Một cách khác nữa là ta có thể làm những gì khác thường, kỳ quạt để làm cho địch nghi ngờ, ngờ vực mà không đám ra ta tấn công trong một thời gian nào đó.  Quân dịch sẽ nghi ngờ, và tiến hành điều tra sự việc cho rõ ràng tình hình rồi mới tiếp túc tấn công.  Trong lúc đó bên ta rút lúi quân một cách an toàn, hay là ta tăng viện lên phòng bị.  Nói cách khác là ta biết cách kéo thêm thời gian, để tìm cách soay sở.

11) Ta khiến địch để lộ thực lực mà ta thì vô hình thì ta có thể tập trung binh lực, còn địch thì phân tán lực lượng.
12) Ta tập trung binh lực ở một nơi mà địch phân tán lực lượng ở mười chốn, tức là ta dùng mười đánh một (he he … địch không chột cũng … chết vì bị hội đồng), như thế quân ta đông quân địch ít, lợi thế hẳn cho ta.
13) Dùng nhiều đánh ít, tương quan lực lượng ta với địch rõ ràng là mình thắng.

      Chú thích câu số 11 - 13,  Tôn Tử dùng phương pháp đánh thử để biết được thực lực đôi phương ra sao, rồi phân tích và so sánh tình hai bên, sau đó sẽ tìm cách thức phân tán lực lượng đôi phương,  Một khi quân địch đã bị phân tán lực lượng, thì ta sẽ tập trung lực lượng mà tấn công vào từng yếu điểm một. Tại vì quân địch bị phân tán, nên sẽ bị giảm quân số ở nhiều nơi, nên ta có thể dùng nhiều quân đánh ít quân là nghĩa là vậy.  Ví dụ, quân địch có 10 vạn quân (1 vạn = 10 ngàn).  Trong khi đó quân ta chỉ có 5 vạn quân.  Bên địch bị phân tán quân ra phòng thủ ở ba thành phố Saigon 3 vạn, Huế 3 vạn, Hải Phòng 4 vạn.  Bên ta có thể tập trung 5 vạn quân tấn công Saigon.  Làm như vậy thì quân ta có 5 vạn thì hơn quân địch đóng ở Saigon có 3 vạn thôi.  Nếu mà quân địch tặng viện cho Saigon, từ Huế thêm 1 vạn, thì ta sẽ tấn công Huế.

14) Nơi ta muốn tiến công, địch chẳng thể nào biết, không thể biết ắt địch phải bố trí phòng thủ nhiều nơi, đã phòng bị nhiều nơi thì quân số bị phân bố ắt nơi ta cần tiến công sẽ có ít quân địch.

     Chú thích câu số 14,  ta phải bí mật trong khi tấn công.  Không được bại lộ kế hoạch của mình.  Nếu mà địch không biết ta tấn công ở đâu, lúc nào bên địch cũng phải ra quân khắp ở khắp mọi nơi để mà phòng thủ, mà làm như vậy thì quân số xẽ bị đàn mỏng.

15) Địch giữ được “mặt tiền” thì mặt sau mỏng yếu, giữ được bên trái thì bên phải yếu mỏng.
16) Binh lực mỏng là vì phòng bị khắp nơi, binh lực dồi dào là nhờ buộc địch phải phòng bị khắp chỗ.
17) Vì thế, biết trước chiến địa và thời gian giao tranh thì dù xa ngàn dặm cũng có thể giao phong với địch.
18) Không biết sẽ đánh ở đâu và vào lúc nào thì cánh trái không thể tiếp ứng cánh phải, cảnh phải không thể ứng tiếp cánh trái, mặt tiền không thể ứng cứu với mặt hậu, mặt hậu không thể ứng cứu mặt tiền, huống hồ xa ngoài ngàn dặm, gần trong vài dặm thì thế nào?
19) Theo ý ta, vượt người về số quân đâu có ích chi cho ta trong việc thắng bại, thắng lợi có thể do ta tạo thành.
      
      Chú thích câu số 19, quân số đông không quan trọng bằng biết cách thức tổ chức, biết cách dùng mưu dùng trí mà tạo lên lợi thế mà phải do ta nghiên cứu mà tạo thành thế lợi.

20)  Quân địch tuy đông, có thể làm cho chúng không thể đấu với ta được.

      Chú thích câu số 20, quân địch tuy đông, nhưng mà ta biết cách làm cho quân địch phải bị phân tán ra nhiều nơi nhiều trỗ, thì đâu có thể đấu với ta, trong lúc đó ta tập trung lực lượng, tấn công một điểm nào đó thì sao mà chống nổi.

21) Phải bày mưu lập kế, phân tích kế hoạch tác chiến của quân địch, khiêu khích địch để nắm tình hình và phương cách hành quân của địch, trinh sát xem chỗ nào có lợi, chỗ nào bất lợi, đánh thử xem binh lực của địch mạnh yếu thực hư thế nào.

      Chú thích câu số 21,  Tôn Tử chủ chương đánh thử để biết trở mạnh, trở yếu.  Phải biết phân thích tình hình kế hoạch tác chiến của quân địch trước khi mà tham chiến.  Cho dù định dụ ta đi nhưng, ta cũng không làm theo.  Khiêu khích địch để đánh thử,  trong khi đó ta sẽ theo dõi cách thức hành sử của địch ra sao, sao rồi tìm ra phương pháp để ứng chiến cho các trận sau.

22) Ta ngụy trang thật khéo khiến địch không tìm ra tung tích thì dù gián điệp có vào sâu trong đội hình cũng không biết rõ được quân ta, kẻ địch khôn ngoan mấy cũng chẳng biết cách đối phó với quân ta.
23) Căn cứ vào sự thay đổi tình hình của địch mà vận dụng linh hoạt chiến thuật, dù có bày sẵn thắng lợi trước mắt chúng cũng không nhận ra sự ảo diệu của nó.
24) Người ngoài chỉ biết ta dùng phương kế thắng địch chứ không biết ta đã vận dụng phương kế đó thế nào.

     Chú thích: câu số 24, ví dụ mình muốn bắt trước người khác nấu ăn cho thật ngon, thì mình có thể nhìn người ta làm ra sao, mà bắt trước, nhưng mà mình không hiểu được cách thức tại sao mà người ta làm như vậy.  Trong chiến tranh cũng vậy, quân địch có thể theo dõi mình đang làm gì, nhưng mà sẽ không hiểu nổi tại sao mình làm như thế vậy.  Cách thức vận dụng phương pháp kế hoạch đó như thế nào.

25) Vì vậy, chiến thiến lần sau không lặp lại phương thức đã dùng trong lần trước mà phải thích ứng với tình hình mới, biến hóa vô cùng vô hình.

      Chú thích câu số 25:  Chữ vô có nghĩa là không.  Vô cùng có nghĩa là không bao giờ đến thận cùng.  Nói cách khác là rất nhiều, không bờ không bến, bao la tận cùng.  Vô hình là không hình dáng, không thấy được.  Không hình dánh, không thấy được tại vì biết cách che dấu đội hình, tin tức bí mật quân sự, hay là biết cách trá hình, để không bị lộ ra ý đồ thật sự của việc điều binh khiển tướng. 
26) Cách dùng binh cũng như dòng chảy của nước vậy, quy tắc vận hành của nước là từ chỗ cao đổ xuống thấp.

      Chú thích câu số 26, nguyên tắc chung là đán từ trên cao xuống.  Trên cao sẽ có lợi thế hơn so với ở chỗ thập.

27) Thắng lợi trên chiến trường là do ta biết tránh chỗ cứng, chỗ thực của quân địch mà đánh vào chỗ mềm, chỗ hư của địch.
     
     Chú thích: câu số 27,  trong chiến tranh, không phải lúc nào cũn g là tiến công hay phòng thủ, mà có lúc phải biết tránh né.  Phải biết uyển chuyển.  Không nên ra tay đánh vào chổ mạnh của đối phương, mà ra tay đánh vào chỗ yếu điểm.  Tránh trỗ mạnh, đánh vào chỗ yếu đó là nguyên tắc căn bản nhất.

28) Nước tùy địa hình cao thấp mà định được hướng chảy, tác chiến căn cứ vào tình hình của địch mà quyết định cách đánh.
      
      Chú thích câu số 28:  phải biết biến hóa, ứng biết, ứng dụng tuy theo tình thế.

29) Dụng binh tác chiến không có hình thế cố định, không có phương thức nhất định.

      Chú thích câu số 29,  Tôn Tử nhận mạnh một điểm tiết yếu là phải biết biến hóa.  Không có một công thức nào là toàn thiện và áp dụng cho tất cả tinh huống trên đời này cả.

30) Dựa vào biến đổi của địch mà chiến thắng thì gọi là dụng binh như thần.
31) Ngũ hành tương sinh tương khắc, không có hành nào luôn thắng, bốn mùa nối tiếp nhau thay đổi, không có mùa nào cố định mãi, bóng mặt trời lúc dài lúc ngắn, vành trăng có khi tròn khi khuyết.

      Chí thích câu số 31.  Tôn Tử nhận mạnh vào nguyên lý tương sinh, tương khắc.  Quân đội nào dù có mạnh đến đâu cũng có một điểm yếu, cũng có lúc yếu đi trong một thời gian nhất định nào đó.  Dù cho quân đội mạnh đến đâu nữa thì tinh thần chiến đấu cũng có lúc lên xuống theo thời gian.  Dựa vào nguyên lý tương sinh, tương khắc, Tôn Tử xẽ khai thác những điểm yếu của đối phương chiết để mà thủ thắng lợi.  Con người dù cho có cẩn thận đến đâu nữa thì cũng có những lúc sơ hở.  Con người dù cho sức khỏe mạnh đến đâu nữa thì cũng có lúc bệnh hoạn.  Chu kỳ sức khỏe con người, có lúc mạnh,  có lúc yếu, lúc bệnh, lúc hồi phục, lúc trẻ trung, lúc già yếu.  Trong quân đội cũng vậy, chu kỳ phát chuyển quân đôi cũng vậy.  Thời gian trôi đi, con người cũng thay đổi.  Người chỉ huy cũng thay đổi suy nghĩ,  tình thế cũng thay đổi, tinh thần cũng thay đổi, và vân vân.  

No comments:

Post a Comment